Kỷ niệm 140 năm ngày sinh cụ Huỳnh Thúc Kháng (1.10.1876 - 1.10.2016):
Nhân cách Huỳnh Thúc Kháng: Lưu danh muôn đời (Kỳ 2)

08:10, 01/10/2016
.

TIN LIÊN QUAN

 

 Kỳ 2:  Từ một tiếng lòng son sắt...

(Báo Quảng Ngãi)- Cụ Huỳnh Thúc Kháng nổi tiếng khẳng khái, quyết liệt mà quốc dân đồng bào lúc bấy giờ ai cũng biết. Cụ quyết thực hiện cho bằng được tiếng lòng đang thúc giục, đó là đòi quyền lợi cho dân, cho nước. Từ tiếng lòng son sắt ấy, những cuộc gặp gỡ, đến và đi... như một cơ duyên và cũng là tất yếu trong cuộc đời cụ Huỳnh.


Tiến sĩ sử học Nguyễn Văn Hưng - Giảng viên Trường ĐH Phạm Văn Đồng đã dành nhiều thời gian nghiên cứu về giá trị lịch sử, văn hóa mà cụ Huỳnh đã để lại cho dân tộc. Tiến sĩ Hưng cho rằng, ở vai trò nào cụ Huỳnh cũng để lại dấu ấn sâu sắc, từ vai trò Viện trưởng Viện dân biểu Trung Kỳ, chủ bút báo Tiếng Dân, Bộ trưởng Bộ Nội vụ và nhất là vai trò Quyền Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

“Thét “Tiếng Dân” giữa kinh thành Huế”

Tiến sĩ Nguyễn Văn Hưng cho biết, năm 1926 Huỳnh Thúc Kháng trúng cử Nghị viện, được bầu làm Viện trưởng Viện Dân biểu Trung Kỳ. Cụ tham gia vào chính trường với hy vọng giành quyền dân chủ cho nhân dân, thế nhưng những thỉnh cầu của cụ bị chính quyền thực dân bác bỏ, nên sau đó cụ từ chức. Không thể ngồi yên khi việc nước đang cần, cụ Huỳnh đã sáng lập và làm chủ bút báo Tiếng Dân, tờ báo đầu tiên bằng tiếng Việt ở Trung Kỳ, xuất bản tại Huế.

Lớp phóng viên hậu bối đọc lại tờ báo Tiếng Dân do cụ Huỳnh Thúc Kháng làm chủ bút.                                                       ẢNH: PV
Lớp phóng viên hậu bối đọc lại tờ báo Tiếng Dân do cụ Huỳnh Thúc Kháng làm chủ bút. ẢNH: PV


Tại Nhà lưu niệm Huỳnh Thúc Kháng hiện lưu giữ nhiều tờ Báo Tiếng Dân. Lật giở từng trang báo đã úa màu thời gian, chúng tôi muôn phần nể phục bậc nhà báo tiền bối đã rất tinh thông, quyết liệt bên vực lẽ phải giữa thời thực dân, phong kiến xảo quyệt, hung tàn. Suốt 16 năm tồn tại (1927-1943), cụ Huỳnh chủ trương sử dụng tờ báo Tiếng Dân “làm nơi nuôi dưỡng ngọn lửa nhiệt thành yêu nước của các tiền nhân để không bị mai một”.

Cụ Huỳnh tuyên bố: “Nếu không có quyền nói thì ít ra cũng giữ được cái quyền không nói những điều người ta buộc nói”. Trước sức mạnh không thể “trói buộc” của Tiếng Dân, Toàn quyền Đông Dương đã ra quyết định đình bản báo Tiếng Dân vào cuối tháng 4.1943.

Cuộc hội ngộ cảm động

Chủ tịch Hồ Chí Minh và cụ Huỳnh Thúc Kháng vốn dành tình cảm đặc biệt về nhau, dù trước đó chưa một lần gặp, có lẽ bởi sợi dây liên kết của lòng yêu nước nồng nàn. Tiến sĩ Nguyễn Văn Hưng tiếp tục câu chuyện, đầu năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh cử người đến mời cụ Huỳnh ra Hà Nội tham gia Chính phủ.

Cụ Huỳnh đã khước từ, vì không biết Hồ Chí Minh là ai và cho rằng, khi cách mạng gian khổ thì chẳng đóng góp gì, nay thắng lợi ra hưởng thụ thì không nên, vả lại nay tuổi đã cao. Khi nhận được thư mời thứ hai, cụ Huỳnh quyết định ra Hà Nội gặp cụ Hồ cốt chỉ để nói vài lời, “còn việc khác thì tôi không thể nhận”. Trong lần gặp gỡ ấy, biết Hồ Chí Minh là Nguyễn Ái Quốc, là thầy giáo dạy ở Trường Dục Thanh trong phong trào Duy Tân, cụ Huỳnh đã rất xúc động.

Sử sách ghi chép: “Giây phút gặp gỡ đầu tiên giữa Bác Hồ và cụ Huỳnh thật là cảm động. Hai người đều bước vội tới, ôm lấy nhau, cả Bác Hồ và cụ Huỳnh bỗng dưng đều ứa nước mắt”. cụ Huỳnh nói: “Khi còn ở Côn Lôn, tôi cũng không tưởng có ngày phục vụ Tổ quốc, phục vụ dân tộc, vì án chung thân, nay gặp cụ, tôi hả lắm”.

Bác Hồ kết luận: “Trên con đường tranh đấu giành độc lập, cụ đã đi được 99 dặm, chỉ còn 1 dặm nữa. Xin cụ đừng thoái thác, cụ vui lòng giúp cho”. Cảm động trước tấm lòng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cụ Huỳnh nhận lời làm Bộ trưởng Bộ Nội vụ. Ở tuổi “thất thập cổ lai hy”, cụ Huỳnh đã hết lòng chăm lo việc nước.

Bài học từ câu chuyện lịch sử của ngày hôm qua, nay vẫn mới. Lớp lớp thế hệ người dân đất Việt không sao quên được chuyện, khi Chính phủ Pháp mời sang thăm chính thức nước Pháp, Bác Hồ đã ký Sắc lệnh ủy nhiệm cụ Huỳnh làm Quyền Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong thời gian Bác đi vắng.

Chỉ một lời dặn của Bác Hồ “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”, cụ Huỳnh hiểu toàn bộ ý tứ Bác Hồ gửi gắm và đã mềm dẻo, linh hoạt, kiên quyết xử lý các thế lực chống phá cách mạng, điều hành công việc rất trôi chảy. Khi làm Đặc phái viên Chính phủ tại miền Trung, trên đường kinh lý, cụ Huỳnh đã kêu gọi đoàn kết dân tộc, ủng hộ Bác Hồ, ủng hộ đường lối kháng chiến.  Cụ Huỳnh nhấn mạnh: “... Trong lúc phục hưng dân tộc, xây dựng nước nhà thì bất kỳ già, trẻ, trai, gái, ai cũng ra sức phụng sự Tổ quốc”.

“…Cụ Huỳnh là người mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo khổ không làm nản chí, oai vũ không làm sờn gan. Cả cuộc đời cụ không cầu danh vị, không cầu lợi lộc, không thèm làm giàu, không thèm làm quan. Cả đời cụ chỉ phấn đấu cho dân được tự do, nước được độc lập” (trích bức thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi toàn thể đồng bào khi nghe tin cụ Huỳnh qua đời).

Duyên tình Nam-Ngãi

Quảng Nam và Quảng Ngãi không chỉ gần nhau về mặt địa lý, mà sợi dây gắn kết sâu đậm hơn cả, đó là cả hai đều có tình cảm sâu nặng đối với cụ Huỳnh. Một là nơi cụ sinh ra và lớn lên, một là chốn cụ làm việc lúc cuối đời và yên giấc nghìn thu.

Nhiều người bảo đây là cơ duyên, có lẽ cũng vì thế mà chúng tôi-người con của núi Ấn-sông Trà khi đặt chân đến mảnh đất Tiên Phước lại cảm thấy gần gũi, thân thương đến vậy.

Theo nhà nghiên cứu văn hóa Cao Văn Chư-Phó Giám đốc Sở VH-TT&DL tỉnh Quảng Ngãi, Cụ Huỳnh có cơ duyên với đất Quảng Ngãi không chỉ ở “đoạn kết”, mà trước đó gần nửa thế kỷ, cụ Huỳnh đã có mối quan hệ đằm thắm với con người ở tỉnh láng giềng.

Trong Thi tù tùng thoại, cụ Huỳnh đề cập nhiều đến những chí sĩ trong Duy Tân hội Quảng Ngãi và cùng bị tù đày tại Côn Đảo. “Nam, Ngãi đều là hai tỉnh chủ lực trong phong trào cự sưu, khất thuế năm 1908 và cuộc khởi nghĩa Duy Tân năm 1916. Không chỉ là láng giềng, quan trọng hơn là chính sự “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu” khiến cho cụ Huỳnh đã có những gắn bó mật thiết với các sĩ phu Quảng Ngãi”, ông Cao Văn Chư nhận định.

Tại Di tích Uỷ ban Kháng chiến hành chính Nam Trung Bộ, điểm nhà bà Võ Thị Tuyết, ở thị trấn Chợ Chùa, huyện Nghĩa Hành (Quảng Ngãi), đề dòng chữ như lời nhắc nhớ bao thế hệ: “Tại đây, từ tháng 12.1946 đến tháng 4.1947, cụ Huỳnh Thúc Kháng, Nguyên Quyền Chủ tịch Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Mặt trận Liên Việt, đại diện Chính phủ ở miền Nam Trung Bộ đã sống, làm việc và từ trần”.

Cuộc đời và sự nghiệp của cụ Huỳnh như thước phim quay chậm, trải qua cả trăm năm mà các thế hệ cháu con trên mảnh đất Quảng Nam, Quảng Ngãi vẫn truyền kể cho nhau về một ông cụ dáng gầy, trang phục áo dài lươn đen, quần trắng, đi guốc mộc, đầu đội khăn đóng, đeo kính, tay cầm ba-toong đi thăm hỏi bà con lối xóm.

Cậu thanh niên Võ Thanh Tân (29 tuổi), cháu nội bà Tuyết, vừa mới thay cha trông nom hương khói cho cụ Huỳnh tại di tích, tâm sự: “Hằng ngày, thắp hương cho cụ, nhìn thấy quần áo, guốc mộc, khăn đóng...  mà cứ hình dung cụ vẫn còn sống”.

Câu chuyện trước lúc cụ Huỳnh tạ thế đã để lại niềm thương nỗi nhớ trong mỗi người. Trên giường bệnh, cụ đã đọc cho thư ký di ngôn gửi Hồ Chủ tịch: “...Tôi bệnh nặng chắc không qua khỏi. Bốn mươi năm ôm ấp độc lập và dân chủ, nay nước đã độc lập, chế độ dân chủ đã thực hiện, thế là tôi chết hả. Chỉ tiếc không được gặp cụ lần cuối cùng. Chúc cụ sống lâu đề dìu dắt quốc dân trên đường vinh quang hạnh phúc”. 

Ngày 21.4.1947, cụ Huỳnh ra đi trong niềm tiếc thương vô hạn của đồng bào cả nước. Theo tâm nguyện của cụ, linh cữu cụ được đưa lên núi Thiên Ấn an táng.

Chuyện của tiền nhân là vậy, trách nhiệm của người đương thời là thắt chặt sợi dây gắn kết của mối tình Nam-Ngãi mà cụ Huỳnh đã chắp nối. Gìn giữ, phát huy những giá trị lịch sử-văn hóa, tạo động lực để thúc đẩy phát triển kinh tế, đó cũng là thể hiện tình cảm đối với lớp người đi trước, vốn đã dày công tạo dựng.

Di tích núi Thiên Ấn và mộ cụ Huỳnh Thúc Kháng là điểm đến của đông đảo nhân dân trong cả nước. Ở nơi “đệ nhất thắng cảnh” của Quảng Ngãi, lòng người thanh thản đến lạ, thỏa tầm mắt ngắm dòng sông Trà uốn lượn và TP.Quảng Ngãi đang vươn mình phát triển...

P.LÝ-TR.PHƯƠNG-NG.TRIỀU


 


.