Dự báo năm Ất Mùi qua học thuyết Âm dương, Ngũ hành

07:02, 20/02/2015
.

Trước thềm năm mới người ta thường đánh giá lại tình hình năm cũ đã qua và đưa ra những nhận định, dự báo về năm mới sắp đến. Xin giới thiệu bài viết dưới đây của một chuyện gia, đưa ra những dự báo về tình hình chung nhất của năm Ất Mùi sắp đến, dưới góc nhìn theo học thuyết Âm dương, học thuyết Ngũ hành và Kinh Dịch.

Nói khái quát, Âm Dương là một khái niệm trừu tượng dùng để chỉ hai mặt, hai (thế) lực, luôn luôn đối lập nhau, nhưng lại có mối liên quan hết sức chặt chẽ, mật thiết, để đi đến thống nhất với nhau, của thế giới vật chất trong Vũ trụ và trên Trái đất.

Âm Dương luôn tuân theo một quy luật nhất định, mang tính chất đối lập, ứng dụng cho từng hoàn cảnh cụ thể là: Có Âm thì mới có Dương, cũng như vạn vật trên Trái đất đều tuân theo một nguyên lý về “Có” và “Không”, nghĩa là nếu có cái này thì sẽ có cái kia, nếu không có cái này thì cũng sẽ không có cái kia. Ví dụ ta gọi “Đêm” thuộc về bóng tối là Âm, thì hiển nhiên “Ngày” thuộc về ánh sáng là Dương, gọi bên trái là Dương thì bên phải sẽ là Âm, gọi phía trên là Dương thì phía dưới sẽ là Âm, gọi Nam là Dương thì Nữ sẽ là Âm, v.v... Còn một tính chất hết sức quan trọng của Âm Dương là sự chuyển hóa liên tục từ Dương sang Âm và từ Âm sang Dương. Từ sự chuyển hóa liên tục của Âm Dương sẽ tồn tại một điểm cực, tức là điểm tận cùng của sự chuyển hóa. Âm đi đến tận cùng sẽ chuyển hóa sang Dương, và Dương đi đến tận cùng sẽ chuyển sang Âm. Thế giới vật chất trong Vũ trụ và trên Trái đất này cứ như vậy mà vận hành, liên tục phát triển, biến hóa và trường tồn vĩnh cửu.

Còn Ngũ hành cũng là một học thuyết nêu về năm loại “Khí” và “Chất” được quy gọn lại là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, có mặt ở trên Trái đất, năm loại khí chất này luôn tuân theo các quy luật về Sinh, Khắc, Chế, Hóa, Quá thừa và Phản ngược.

Gọi là Ngũ hành tương Sinh, tức là hành này làm lợi cho hành kia: Thủy sinh Mộc, Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy. Còn Ngũ hành tương Khắc là hành này làm thiệt hại, hao tổn cho hành kia: Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy.

Ngũ hành tương Chế là hành này làm hạn chế tới sự tác hại của hành kia, như Thủy khắc Hỏa, nhưng nếu có Thổ tham gia thì sẽ làm hạn chế sự khắc hại của Thủy đối với Hỏa, vì Thổ khắc Thủy. Ngũ hành tương Hóa là hành này hóa giải sự khắc hại của hành kia, như Thủy khắc Hỏa, nhưng nếu có Mộc tham gia nữa thì Thủy sẽ sinh Mộc, Mộc lại sinh Hỏa, tức là Mộc đã hóa giải được sự khắc của Thủy đối với Hỏa.

Ngoài ra còn phải chú ý tới quy luật về Ngũ hành Quá thừa trong tương sinh, như Thủy sinh Mộc, tức là không có Thủy thì Mộc sẽ chết. Nhưng nếu Thủy quá nhiều, quá thừa thì sẽ phản tác dụng đối với Mộc, làm cho Mộc bị trôi dạt hay úng ngập, trong trường gợp này Thủy không những không làm lợi cho Mộc mà còn làm hại Mộc. Cuối cùng là quy luật Ngũ hành Phản ngược trong tương khắc, như Thủy khắc Hỏa, nhưng nếu nhiều Hỏa quá mà Thủy có ít thì Hỏa sẽ tạo nên sự khắc ngược trở lại đối với Thủy, sức nóng cực mạnh của Hỏa làm cho Thủy bốc hơi hết.
 

Đối chiếu với năm Ất Mùi sắp đến ta thấy: Ất và Mùi đều thuộc Âm. Ất thuộc Âm Mộc, Mùi thuộc Âm Thổ. Ất Mộc được quy cho các loài cây cỏ, cây lúa, các loại hoa màu và cây hoa nhỏ, còn Mùi Thổ được quy cho các loại đất trồng trọt ở những vùng đồng bằng dùng để làm ruộng, làm vườn. Nhưng năm Ất Mùi lại có Ngũ hành chung thuộc Kim là Sa trung Kim. Cách gọi này được tính theo quy luật vận hành của Tiên thiên Bát quái quy nạp vào chu kỳ Lục giáp 60 năm. Cho nên năm Ất Mùi sẽ thể hiện về các vùng đất ruộng, đất vườn rất thích hợp cho việc trồng các loại cây cỏ, lúa, hoa màu và các loài cây hoa nhỏ. Vì vậy, trong nông nghiệp, cần phải có sự quy hoạch cụ thể từng loại đất, tương ứng với từng loại cây cho phù hợp, thì mới đảm bảo năng suất cây trồng. Không nên tùy tiện chuyển đổi đất trồng sang làm các việc khác hay chuyển đổi các loại cây trồng, đều không mang lại kết quả mà còn gây thiệt hại cho năng suất. Nhưng vì năm Ất Mùi có Ngũ hành chung thuộc Kim nên sẽ làm hạn chế sự khắc hại của Ất Mộc đối với Mùi Thổ, vì Kim khắc Mộc. Mặt khác, năm Ất Mùi cần có nhiều Thủy để cho Kim sinh Thủy, Thủy lại sinh Mộc, khi đó thì Kim sẽ không khắc Mộc nữa, dẫn đến sự thuận chiều giữa các hành khí, tạo nên mối tương sinh liên hoàn Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc, làm cho Mộc càng thêm thịnh vượng. Như vậy năm Ất Mùi cần nhiều công trình cải tạo thủy, làm sạch thủy thì sẽ đem lại hiệu quả và năng suất cao cho các loại cây trồng.

Về Ngũ hành chi tiết của năm Ất Mùi là Sa trung Kim, loại Kim nguyên chất có trong đất cát, nên không cần phải tôi luyện nhiều, nhưng loại Kim này lại rất cần có Thủy thật tinh khiết để rửa sạch thì Kim mới trở nên sáng chói, khi đó Kim mới sinh được cho Thủy. Trên thực tế hiện tại có rất nhiều dòng sông, dòng suối đang bị ô nhiễm quá mức, tạo nên một loại Thủy hỗn tạp, vẩn đục, mất đi độ trong sạch thuần khiết vốn có của Thủy, không sinh được cho Mộc mà có khi còn làm hại Mộc, khiến cho Mộc trở nên còi cọc, tàn lụi, không phát triển được.

Mặt khác, theo thuật Phong thủy ứng vào Hậu thiên Bát quái, năm Ất Mùi có can “Ất” đóng ở phương Đông, thuộc quái Chấn quản (quái Chấn quản ba phương vị Giáp, Mão, Ất). Còn chi “Mùi” đóng ở phương Tây nam, thuộc quái Khôn quản (quái Khôn quản ba phương vị Mùi, Khôn, Thân), nên năm Ất Mùi sẽ ứng vào hai đơn quái Chấn và Khôn, quái Chấn thuộc Can là quái trên, quái Khôn thuộc Chi là quái dưới. Hai đơn quái này tạo nên một Trùng quái, Dịch học gọi là trùng quái Lôi địa Dự, có nghĩa như sau:

Lôi địa Dự gồm hai đơn quái, quái Chấn có tượng là sấm chớp, luôn chuyển động trên bầu trời, có tiếng vang xa, phát ra ánh sáng rực rỡ, nhưng loại ánh sáng này chỉ xuất hiện trong chốc lát rồi lại tắt ngay. Còn quái Khôn có tượng là đất bằng, luôn tĩnh lặng, là nơi để cho cây trồng phát triển và tồn tại. Nên trùng quái Lôi địa Dự có tượng chung là: Trên mặt đất bằng có sấm động, chớp lóe sáng. Quái Chấn tượng động cần quái Khôn tượng tĩnh để chế phục, làm giảm sự bồng bột, xốc nổi, nóng nảy, những đặc tính này thường không có lợi cho giải quyết công việc đối ngoại. Ngược lại, quái Khôn tĩnh cũng cần quái Chấn động để thúc đẩy, để giảm bớt sự trì trệ, giảm bớt sức ì, sự chậm trễ, và quan trọng là sự suy diễn trái chiều, đổ lỗi cho nhau. Được như vậy mới tạo nên sự hòa thuận vui vẻ, vì vậy trùng quái Lôi địa Dự có nghĩa thứ nhất là sự hòa thuận, vui vẻ.

Quái Chấn là quái Dương thuộc về trời, quái Khôn là quái Âm thuộc về đất, tạo cho trùng quái Lôi địa Dự có đủ Âm Dương kết hợp. Dương động đóng ở trên, Âm tĩnh đóng ở dưới, thuận với chính Đạo trời đất, nên mới tạo được sự hòa thuận, sự giúp đỡ, hỗ trợ cho nhau, tạo điều kiện cùng nhau phát triển. Nên nghĩa thứ hai của trùng quái Lôi địa Dự là sự giúp đỡ lẫn nhau, cùng nhau phát triển

Nhưng trùng quái Lôi địa Dự có sáu hào thì có năm hào Âm, một hào Dương, sự chênh lệch về Âm Dương trong trùng quái này có hai nghĩa. Thứ nhất là một hào Dương, năm hào Âm, tượng cho một người ở thế trên muôn người, sẽ xuất hiện anh hùng hào kiệt cho đất nước. Nghĩa thứ hai là năm hào Âm, một hào Dương, tạo nên sự mất cân bằng về Âm Dương quá lớn, làm cho Âm thì luôn thịnh vượng, còn Dương thì luôn suy yếu, Dương suy không chế ngự được Âm sẽ khiến cho Âm tự do hành động, bành chướng và lấn át Dương, còn Dương thì trở nên cô đơn, không có sự chia sẻ, giúp đỡ, làm cho Dương trở nên độc đoán, dẫn đến sự liều lĩnh, tác quái, rồi phát sinh ra những suy nghĩ và hành động mờ ám, thiếu sự minh bạch rõ ràng.

Vì vậy rất cần quan tâm bồi dưỡng Dương để tạo nên sự cân bằng Âm Dương mới cho kết quả tốt đẹp. Cũng chính vì điều nêu trên mà những nhân tài của đất nước cần được đặt đúng vị trí, đúng sở trường của họ thì mới phát huy tác dụng tốt, để trở thành những hạt nhân, những người đi đầu, quy tụ được mọi tầng lớp quần chúng nhân dân noi theo, thúc đẩy sự phát triển thịnh vượng của đất nước. Trùng quái này ứng vào câu “Đất bằng nổi lên một tiếng sấm”, có nghĩa về sự cần thiết phải giải quyết vấn đề đất đai. Hiểu rộng ra, câu này cũng có nghĩa là sự tranh chấp đất đai trong từng vùng miền, hay vùng lãnh thổ của từng quốc gia đang còn nhiều phức tạp.

Trùng quái Lôi địa Dự là trùng quái lục hợp, sáu hào trong trùng quái hợp với nhau từng đôi một tạo thành ba cặp địa chi nhị hợp với nhau (Ngọ hợp Mùi, Tị hợp Thân, Mão hợp Tuất), nên trùng quái này có ý khuyên con người ta, nhất là đối với các bậc lãnh đạo phải luôn thể hiện sự thuận theo đạo lý mà hành sự thì sẽ đáp ứng được nguyện vọng của toàn dân. Trùng quái Lôi địa Dự còn nói về tiếng vang xa của đạo lý, nếu mọi đạo lý được ứng dụng theo chuẩn mực, hợp với chính đạo, thì trời đất cũng phải thuận theo ý của thánh nhân. Cần “Cương” chỉ quái Chấn là quái Dương, thì phải dựa theo nền tảng của luật pháp mà xử lý mọi việc nghiêm túc, minh bạch, rõ ràng, dứt khoát. Cần “Nhu” chỉ quái Khôn là quái Âm, thì phải có những biện pháp, sách lược mềm mại uyển chuyển, luôn chú ý học tập và làm theo kế sách của người xưa đã từng làm, để khiến cho thiên hạ phải tâm phục thì sẽ giữ được sự toàn vẹn, bình yên cho đất nước.        

Trùng quái Lôi địa Dự còn có nghĩa nói về sự chuẩn bị, sự lo xa trong mọi trạng thái, mọi hành động sẽ diễn ra vào thời gian tới. Điều này có ý nhắc nhở con người trong mọi hành động, mọi tình huống cần phải có sự tính toán thật kỹ lưỡng, cụ thể từng công việc một, và phải luôn có sự kiểm tra, giám sát, tránh để xảy ra sự tắc trách, vô trách nhiệm, thậm chí vô cảm, dễ dẫn đến mọi việc đều không được như ý muốn, hoặc dễ dàng đi đến thất bại.

Phân tích chi tiết về các hào của trùng quái Lôi địa Dự ta thấy có hai hào “Tài” đều thuộc Thổ, là hào một và hào sáu, như vậy từ Thổ sẽ sinh ra tài lộc, tiền của. Năm Ất Mùi có chi Mùi cũng thuộc Thổ, nên được gọi là Tài lâm Thái tuế, sẽ rất có lợi cho việc cầu tài lộc. Một hào Tài ở quái nội, một hào Tài ở quái ngoại, như vậy tiền tài, của cải sẽ được huy động ở cả hai lĩnh vực trong nước và ngoài nước. Trong trùng quái lại có hai hào “Tử” đều thuộc Hỏa, là hào hai và hào bốn, hai hào này tạo nên nguồn để sinh tài lộc (Hỏa sinh Thổ), vậy nên vấn đề chọn thời cơ để cầu Tài là rất quan trọng. Thời cơ sẽ xuất hiện vào hai thời kỳ chính trong năm, thời kỳ đầu là tháng tư, tháng năm và tháng sáu, thời kỳ thứ hai vào tháng chín. Nếu cầu Tài vào những tháng này sẽ có kết quả, tiền tài tăng gấp từ một đến ba lần. Nói cầu Tài ở đây là nói về tất cả các lĩnh vực có liên quan đến tiền bạc của cải như sản xuất hàng hóa, nuôi trồng các loại cây con, buôn bán, khai trương mở cửa hàng, thành lập công ty, v.v...

Trong trùng quái có một hào “Huynh” thuộc Mộc là hào ba, nhưng hào này lại hợp với hào Tài là hào sáu, nên không làm thiệt hại đến Tài (vì Mão hợp Tuất). Chỉ có điều khi được tiền tài thì cần phải phân chia theo đúng hợp đồng, khế ước, cam kết ngay từ đầu, có như vậy mới giữ được mối hòa hảo huynh đệ lâu bền. Trong trùng quái có một hào “Quan” thuộc Kim, là hào năm, cũng hợp với hào Tử nên hào Tử cũng không làm thiệt hại tới hào Quan (vì Tị hợp Thân). Trong trường hợp này, hào Quan rất có lợi, vì ba hào tạo được một mối tương sinh liên hoàn là hào Tử sinh cho hào Tài, hào Tài này lại sinh cho hào Quan (ở đây là Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim). Chứng tỏ vấn đề quan chức trong năm Ất Mùi có chú ý hơn tới năng lực, trí tuệ thật sự, tức là đối với những người có năng lực, có tài, thì sẽ được trọng dụng đúng vị trí hay sẽ được thăng quan tiến chức.

Một điều cần chú ý nữa là: Hào Quan là hào Âm, lại là hào năm, hào ở vào vị trí cao nhất của con người trên Trái đất, điều này nói về sự làm quan, về những người được thăng quan cần phải chú ý đến cội nguồn, chú ý đến việc thờ cúng ông bà tổ tiên, tức là những người được thăng quan thì không những không được quên nguồn gốc, xuất sứ của mình, mà còn cần phải tôn kính, trân trọng đối với tổ tiên, suy rộng ra là tôn kính đất nước mình, dân tộc mình, thì mới tạo được sự sâu rễ, bền gốc, đem lại phồn vinh cho dân tộc.

Điều cuối cùng trong trùng quái này là: Hào Phụ ẩn phục bị khắc (Thổ khắc Thủy), nên khuyến cáo mọi người rất chú trọng đến các loại văn bản, các loại hợp đồng, hóa đơn chứng từ v.v... cần phải xem xét thật kỹ, thật chi tiết trước khi đặt bút ký hay phê duyệt, nếu không sẽ bị hao tốn và thiệt hại. Dưới đây là trùng quái Lôi địa Dự nạp Can, Chi, Ngũ hành và Lục thân để bạn đọc tham khảo:


Năm mới sắp đến, một mùa xuân nữa lại về, mùa của ước mơ, hy vọng, mùa của nắng ấm và vạn vật tốt tươi, có thêm nhiều chồi xanh, lộc biếc. Chúng ta tin tưởng và cầu mong cho đất nước được mọi sự hanh thông, thiên hạ thái bình.



Khương Văn Thìn
Nhà nghiên cứu Dịch học và Phong Thủy học

Nguồn: Chinhphu.vn


.