Hướng tới kỷ niệm 50 năm Ngày mở Đường Hồ Chí Minh trên biển (23-10-1961 / 23-10-2011)
Chân dung các thuyền trưởng tàu không số (Kỳ 1)

10:09, 27/09/2011
.

Đường Hồ Chí Minh trên biển đã trở thành con đường huyền thoại, duy nhất có trong lịch sử chiến tranh nhân loại. Nhân kỷ niệm 50 năm truyền thống của tuyến đường đặc biệt này, chúng tôi xin gửi đến bạn đọc những hồ sơ, tư liệu, ghi chép về chân dung những “thuyền trưởng huyền thoại" của "con đường huyền thoại” này.

Kỳ 1: Thuyền trưởng tàu không số đầu tiên

Cho đến nay, đã có nhiều bài báo, phóng sự tài liệu về đồng chí Lê Văn Một, người thuyền trưởng của chiếc “tàu không số” đầu tiên mang tên Phương Đông 1. Nhưng cuộc đời cách mạng của ông còn có nhiều bí mật, bất ngờ khiến chúng ta đi từ ngạc nhiên đến khâm phục.

Bắt đầu từ “con đường xuyên Tây”

Lê Văn Một sinh năm 1921, thuộc dòng dõi gia tộc thủ khoa yêu nước Nguyễn Hữu Huân đất Tiền Giang. Từ lúc lọt lòng, ông có tên Pháp là Abel René.  Abel René là con thứ  11 trong một gia đình giáo học quốc tịch Pháp có 13 anh em. Cha là Đốc học Lê Văn Giỏi nổi tiếng đất Mỹ Tho (Tiền Giang). Cậu bé Abel René từ nhỏ đã tỏ ra thông minh, sáng dạ, chăm chỉ học tập, được bố mẹ cho học ở nhiều trường như Trường Tiểu học Mỹ Tho, Trường Lê Bá Cang - Sài Gòn... rồi ra Hà Nội học ở Trường Thăng Long.

Đến tuổi trưởng thành, Abel René vào lính thủy, làm “nghĩa vụ” với mẫu quốc Pháp, là hoa tiêu trên tàu Lamotte Picquet - tuần dương hạm lớn nhất Đông Dương.

Cách mạng Tháng Tám 1945 là một bước ngoặt mới đến với Abel René. Luồng gió mới thổi vào đời ông. Abel René bừng tỉnh: La france ce n’est pas ma Ptrie! (Nước Pháp không phải là quốc mẫu của tôi!). Ông cùng bạn bè tìm đường theo cách mạng kháng chiến. Abel René đổi tên thành Lê Văn Một.

Thuyền trưởng Lê Văn Một. (Ảnh do gia đình cung cấp)
Thuyền trưởng Lê Văn Một. (Ảnh do gia đình cung cấp)

Tháng 12-1946, cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Lực lượng vũ trang Nam Bộ “thuốc súng kém, chân đi không” đành phải lùi dần về Đồng Tháp Mười và rừng U Minh. Ban sưu tầm vũ khí ở nước ngoài được thành lập. Lê Văn Một và 12 người nữa được đồng chí Năm Phúc (tức nhà lão thành cách mạng Dương Quang Đông) chọn vào lực lượng vận tải vũ khí, lên đường sang Băng Cốc (Thái Lan) bằng ghe buồm để tìm mua vũ khí và tổ chức con đường xuyên Tây, vận chuyển vũ khí từ Thái Lan về Nam Bộ.

Lê Văn Một được giao trọng trách mang theo 25kg vàng, bỏ trong ruột tượng, ngày đêm cột chặt quanh mình. Số vàng này là kỳ tích của “Tuần lễ vàng” vì lòng yêu nước của nhân dân quyên góp để mua vũ khí.

Chuyến đầu tiên, Lê Văn Một tổ chức 10 xe bò, 10 voi và lực lượng 70 người, vận chuyển bằng đường bộ qua Cam-pu-chia về nước. Súng theo voi, đạn đeo lưng người. Trải qua 16 ngày vượt núi, qua sông, địch luôn luôn ngăn đường, chặn lối, đơn vị vừa hành quân vừa tác chiến 11 trận trên đất Cam-pu-chia. Đầu tháng 1-1948, đoàn về đến Nam Bộ với 11 người hy sinh và mất tích. Thấy vận chuyển đường bộ gian khổ, hiệu quả thấp, Lê Văn Một tính cách  chuyển sang vận chuyển bằng đường biển.
 
Tuy nhiên, gian khổ, hy sinh vẫn không hề nhỏ. Có lần đoàn vận tải do “cặp đôi” Lê Văn Một - Bông Văn Dĩa chỉ huy gặp gió bão, phải ghé vào đảo  Phú Quốc để tránh. Gần một tháng nằm tại đây, cả đoàn phải đào củ chuối rừng ăn cầm hơi... Cứ như vậy, suốt mấy năm liền, đi đi, về về trên Vịnh Thái Lan, đơn vị đã vận chuyển được hàng trăm tấn vũ khí, hàng hóa về Nam Bộ. Những chiến công thầm lặng đó đã tạo tiền đề cho ý tưởng vĩ đại mở con đường Hồ Chí Minh trên Biển Đông.

... Đến mở đường huyền thoại Hồ Chí Minh trên biển

Năm 1960, phong trào cách mạng ở miền Nam phát triển mạnh mẽ, mở đầu là phong trào Đồng Khởi ở Bến Tre rồi lan rộng khắp các tỉnh Nam Bộ.  Nhu cầu vũ  khí cho chiến trường miền Nam rất lớn. Con đường Trường Sơn đang hình thành. Trước tình hình đó, Trung ương Đảng đã chỉ thị cho các tỉnh ven biển Nam Bộ chuẩn bị bến bãi và đưa thuyền ra Bắc để nhận vũ khí, đồng thời nghiên cứu con đường vận chuyển chiến lược trên biển để sử dụng lâu dài. Từ cuối năm 1961, đầu năm 1962, lần lượt 6 thuyền gỗ của các tỉnh Bến Tre, Cà Mau, Bà Rịa, Trà Vinh (trong đó thuyền gỗ Cà Mau do Bông Văn Dĩa phụ trách) đã ra đến miền Bắc an toàn. Con đường vận chuyển trên biển Đông khẳng định là “có thể đưa vũ khí vào được”.

Lê Văn Một lúc đó đang tập kết ngoài Bắc, làm Cảng trưởng cảng Cẩm Phả, được điều chuyển ngay về Đoàn 759 - Bộ Quốc phòng (tiền thân của Lữ đoàn 125 Hải quân) chuẩn bị làm nhiệm vụ đặc biệt này, nhiệm vụ mở đường đưa vũ khí từ Bắc vào Nam trên những “con tàu không số”. Phải nói rằng cấp trên đã khéo chọn, khéo sắp xếp một “cặp bài trùng”, Lê Văn Một - Thuyền trưởng, Bông Văn Dĩa - Chính trị viên, cùng chung chuyến mở đường, cũng như họ đã từng kề vai sát cánh trên Vịnh Thái Lan thời chống Pháp đưa vũ khí về Nam Bộ. Họ đã biết tính nết nhau, tôn trọng nhau, đoàn kết yêu thương nhau, chèo lái “con tàu không số” đầu tiên vượt biển Đông mở đường tiếp viện quan trọng đưa vũ khí vào miền Nam đánh Mỹ.

Ngày 11-10-1961, tại Bến K15, Đồ Sơn, Hải Phòng (Bến K15 vừa được Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích cấp quốc gia), con tàu gỗ Phương Đông 1 lặng lẽ nhổ neo ra khơi, hướng về phía Nam, chở 30 tấn vũ khí, mang  theo cả niềm tin, tình thương của Đảng, của Bác Hồ, của nhân dân miền Bắc tới đồng bào miền Nam. Chuyến đi mở đường đã thành công. Một lần nữa hai người chỉ huy Lê Văn Một - Bông Văn Dĩa lại ghi tên mình vào trang sử vẻ vang của dân tộc.

“Người đi lo một, người chờ tin lo mười”

Phó thủ tướng Phạm Hùng ngày đó đã căn dặn 12 thành viên con tàu gỗ Phương Đông 1 trước giờ xuất phát: “Đây là chuyến đi đầu tiên, nên cực kỳ quan trọng, một việc hệ trọng và lâu dài, do vậy nếu gặp địch phải khôn khéo, mưu trí, trường hợp xấu phải hủy hàng, hủy tàu để giữ bí mật con đường, các đồng chí nên nhớ, người đi lo một, người ở lại chờ tin, lo mười...”.

Ông Sáu Lai, một trong hai người còn lại của tàu Phương Đông 1, hiện sống tại Cần Thơ, kể lại: “Có lần gặp tàu địch bám theo hướng chạy của ta, chúng nã pháo dữ dội. Anh em nhanh trí xổ cả buồm lái và mũi cho thuyền căng gió lướt trên ngọn sóng. Chỉ huy tàu phát lệnh chiến đấu. Toàn tàu xác định, khi cần dùng tốc độ vượt lên, để tàu địch phía sau, rồi cho nổ bom phá áp tàu giặc, dùng tiểu liên, lựu đạn đánh địch, người lái thì cứ cho tàu chạy thoát. Nếu không thoát thì cho nổ 3 trái bom còn lại, quyết không để tàu và vũ khí rơi vào tay giặc. Một và Dĩa dự kiến, nếu địch bắt cả tàu thì lợi dụng trời tối cắt dây cho anh em bơi vào bờ, còn Một và Dĩa ở lại dùng bom thủ tiêu tàu. Một nói với Dĩa: Nếu phải thủ tiêu để một mình tôi thôi! Anh cùng anh em may ra còn sống sót về Trung ương báo cáo...”.

Có lúc, gặp giông bão, tàu nhỏ, chở đầy hàng rất nguy hiểm, không vào bờ, dễ “chết ở ngoài khơi”, vào bờ dễ “làm mồi cho giặc”, Thuyền trưởng Một và Chính trị viên Dĩa phải tính toán cân nhắc đến mức căng thẳng.

Người đi trên biển thì như vậy, người ở nhà chờ tin thì sao? Trung tướng Đồng Văn Cống, nguyên Cục phó Cục Tác chiến, người trực tiếp theo dõi diễn biến của “con tàu không số” đầu tiên, kể lại: “Theo kế hoạch dự kiến đi 5 ngày thì đến. Sáng nào đến giờ giao ban Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng hỏi: “Thế nào rồi? Có tin tức gì không?”... Tôi sốt ruột lắc đầu, rồi ngày thứ sáu, thứ bảy, thứ tám cũng không tin tức gì! Sáng ngày 19-10-1962, tức ngày thứ chín, Quân ủy Trung ương đang giao ban. Tôi bước vào. Đại tướng ngẩng đầu nhìn tôi đăm đăm. Lần này tôi gật đầu, mặt tươi sáng. Đại tướng đứng dậy ôm chầm lấy tôi, Đại tướng khóc. Mừng quá, không sao kể xiết...”.

Chuyến đi thắng lợi, tàu Phương Đông 1 đã cập bến Vàm Lũng - Cà Mau an toàn sau 9 ngày lênh đênh trên Biển Đông.

Một năm sau, Lê Văn Một lại được cử  làm thuyền trưởng tàu gỗ 41, đưa vũ khí vào miền Đông Nam Bộ, mở bến Lộc An (Bà Rịa - Vũng Tàu) ngay trước đồn Phước Hải, đêm 3-10-1963. Đây là một chuyến đi gian khổ bởi tàu bị mắc cạn ngay trước đồn địch. Lê Văn Một đã ứng xử rất linh hoạt, thông minh, bảo đảm đưa hàng tới bến an toàn. Hai chuyến đi này đều ghi những dấu ấn đặc biệt trong hành trình vận chuyển vũ khí bằng đường biển của những “con tàu không số”.
 
Đây là những chuyến mở đường, vào bến mới, đầy khó khăn và thử thách. Bằng kinh nghiệm đi biển, bản lĩnh dày dạn, đặc biệt là tinh thần quả cảm “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, Thuyền trưởng Lê Văn Một đã xử trí rất thông minh nhiều tình huống phức tạp trong hiểm nguy và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

Lê Văn Một mất năm 1982. Chiến công của ông đã được ghi trong Lịch sử Hải quân nhân dân Việt Nam, được đánh giá cao trong tập chuyên khảo mang tên “Đường Hồ Chí Minh trên biển Bà Rịa - Vũng Tàu” do Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Hà Nội xuất bản năm 1993. Ba năm sau ngày ông mất, Bảo tàng Hồ Chí Minh phối hợp với gia đình tổ chức cuộc họp mặt, đánh giá công lao đóng góp của ông trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, đặc biệt là thành tích đóng góp cho việc mở đường, vào những bến mới trên con đường Hồ Chí Minh trên biển. Ông được Nhà nước công nhận liệt sĩ và  truy tặng Huân chương Độc lập hạng ba vì những đóng góp của ông vào sự nghiệp cách mạng của Đảng và của dân tộc.

Năm tháng sẽ qua đi, nhưng chiến công anh hùng của tập thể tàu Phương Đông 1 mà người chèo lái con tàu đó là Thuyền trưởng Lê Văn Một và Chính trị viên Bông Văn Dĩa, những con người đã dũng cảm đi tiên phong, “khai sơn phá thạch” một con đường, sẵn sàng hy sinh vì nhiệm vụ giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, mở đường vận tải chiến lược mang tên Bác Hồ kính yêu sẽ mãi đi vào lịch sử đấu tranh anh dũng kiên cường của dân tộc ta, trở thành huyền thoại mãi mãi không bao giờ nhạt phai trong tâm trí chúng ta, làm rạng rỡ thêm truyền thống anh hùng của Hải quân nhân dân Việt Nam.

Kỳ 2: Thuyền trưởng tàu sắt đầu tiên

.