(QNĐT)- Trương Đăng Đồ người làng Mỹ Khê, huyện Bình Sơn, nay thuộc xã Tịnh Khê, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi. Ông cùng người vợ - bà Nguyễn Thị Dung là những bậc trung thần - liệt nữ xứng đáng được người đời kính trọng, tôn thờ.
TIN LIÊN QUAN |
---|
Theo gia phả họ Trương(1) , khoảng năm Quý Hợi (1623), ông Trương Đăng Nhứt cùng người con trai là Trương Đăng Trưởng (tổ 5 đời của Trương Đăng Đồ) ứng nghĩa phù Lê, sau đó đưa gia quyến rời quê cũ, nay thuộc huyện Thạch Hà, Hà Tĩnh vào định cư ở vùng đất tả ngạn sông Trà Khúc.
Đất lành đãi người tín thực, ông Trương Đăng Trưởng làm quan, được phong tước Nham Lĩnh bá; dòng họ Trương nhanh chóng hưng thịnh, gia phong nền nếp, nhiều người có tài đức tham gia vào bộ máy quan lại đương thời.
Từ đường Triêm Ân tử, nơi thờ phụng ông Trương Đăng Phác và ông Trương Đăng Đồ |
Cuối thế kỷ XVIII, cuộc tranh đoạt giữa anh em nhà Tây Sơn và Nguyễn Ánh liên tục trong nhiều thập kỷ đã kéo theo lắm hệ luỵ trong xã hội, mà rõ nhất là tình cảnh phân chia đến mức đối đầu quyết liệt trong việc lựa chọn ngọn cờ tôn phù, thể hiện những khác biệt về quyền lợi, nhận thức thời cuộc, kể cả hoàn cảnh và điều kiện riêng của mỗi con người trong xã hội.
Sự khác biệt này không chỉ xảy ra giữa các nhóm quyền lợi mà còn hiện diện trong mỗi gia đình, gia tộc và phần nào cho thấy sự ly tán không tránh khỏi của lòng người. Là một trong những dòng họ có uy tín trong vùng, họ Trương không tránh khỏi tác động bởi những ngọn gió xô đẩy nghịch chiều trong không gian đầy bão tố của thời đại.
Đời thứ 5 dòng họ Trương ở Quảng Ngãi có ông Trương Đăng Lượng giữ một chức quan nhỏ dưới thời Định vương Nguyễn Phúc Thuần - vị chúa cuối cùng của họ Nguyễn ở Đàng Trong. Ông sinh hạ 5 người con trai (Trương Đăng Chấn, Trương Đăng Nghĩa, Trương Đăng Phác, Trương Đăng Yến và Trương Đăng Đồ), trong đó có đến 4 người (Trương Đăng Chấn, Trương Đăng Nghĩa, Trương Đăng Phác, Trương Đăng Đồ) ra giúp triều Tây Sơn.
“Trương tộc thế phả” cùng truyền ngôn trong dòng họ, cho biết: Trương Đăng Đồ là con trai út của Trương Đăng Lượng và là chú ruột Trương Đăng Quế - một danh thần triều Nguyễn. Ông có dung mạo tuấn tú, ham văn chuộng võ, được thân phụ đưa ra học ở Phú Xuân và trở nên nổi tiếng trong giới theo đòi nghiên bút.
Khi nhà Tây Sơn nổi lên, ông ra cộng tác, lập nhiều công trạng, thăng đến chức Đô đốc, được phong tước Tú Đức hầu. Năm Nhâm Tý – 1792, Hoàng đế Quang Trung băng hà, Thái tử Quang Toản lên nối ngôi, lấy niên hiệu là Cảnh Thịnh. Trương Đăng Đồ phụng mệnh phò Tiết chế Nguyễn Quang Thuỳ trấn nhậm Bắc Thành, cai quản vùng đất trọng yếu ở phương Bắc.
Suốt 10 năm ròng (1792 – 1802), bất chấp những biến động triền miên ở phía Nam, vùng đất Bắc hà dưới sự cai quản của Tiết chế Nguyễn Quang Thuỳ, có sự giúp rập của Trương Đăng Đồ, vẫn luôn giữ được ổn định.
Tháng giêng năm Nhâm Tuất (1802), sau khi kinh đô Phú Xuân thất thủ, các tướng lĩnh Tây Sơn dưới trướng vua Quang Toản cố gắng tập hợp lực lượng, gượng dậy lần cuối bằng cuộc phản công tổng lực tại lũy Trấn Ninh. Thời đã qua, thế đã tàn, quân Tây Sơn chuốc lấy thất bại nặng nề trước khí thế hừng hực của đội quân Nguyễn Ánh.
Tháng 5 năm ấy, Nguyễn Ánh lên ngôi, đặt niên hiệu Gia Long, dồn lực lượng hùng hậu tiến công ra Bắc, quyết tâm kết liễu nhà Tây Sơn. Nghệ An, Thanh Hoa (Thanh Hoá) rồi các trấn Bắc thành nhanh chóng rơi vào tay quân Nguyễn.
Thế cùng lực kiệt, Trương Đăng Đồ hộ giá vua Quang Toản và người anh của nhà vua là Tiết chế Quang Thuỳ vượt sông Nhĩ Hà chạy về hướng bắc.
Ngày 17/6 năm Nhâm Tuất (1802), Quang Toản cùng cung quyến bị bắt. Quân Gia Long truy đuổi gắt gao các tướng lĩnh và yếu nhân còn lại của nhà Tây Sơn. Quân ít, thế cô, liệu thế không thể chống đỡ nổi, Quang Thùy, Đô đốc Tú Đức hầu Trương Đăng Đồ và phu nhân là Phó tướng Nguyễn Thị Dung cùng tự vẫn.
Câu chuyện những thời khắc cuối cùng trong cuộc đời vợ chồng Trương Đăng Đồ được Trương tộc thế phả chép lại thật đậm màu bi tráng: Khi đại binh Nguyễn Ánh khí thế ngất trời tràn ra Thăng Long, Trương Đăng Đồ biết vận nhà Tây Sơn đã đến hồi cùng, bèn cho người mời phu nhân đến mà rằng: Vua nhục thì tôi chết, phần tôi phải chết theo vua, phu nhân nên cải trang lánh về Nam.
Bà Nguyễn Thị Dung khẳng khái đáp lời: Bề tôi chết vì vua, vợ không được chết vì chồng sao? Vậy rồi hai người cùng tuẫn tiết. Ông thì vẹn đạo quân thần, bà thì trọn nghĩa phu thê, quả là cặp anh hào - liệt nữ hiếm có trên đời.
Người Bắc hà thương tấm lòng trung nghĩa của hai người, đem di thân chôn cất, hương khói tử tế. Các tài liệu trước đây chép một cách chung chung là con cháu về sau chuyển dời di cốt vợ chồng Trương Đăng Đồ – Nguyễn Thị Dung về quê, an táng ở xứ đồng Bàu Trẳng, làng Mỹ Khê Tây, xã Tịnh Khê.
Tuy nhiên, những phát hiện gần đây cho thấy rất có thể chính Trương Đăng Quế (con của Trương Đăng Phác, gọi Trương Đăng Đồ bằng chú ruột) là người làm việc này, với sự đồng ý không chính thức của triều đình Tự Đức.
Là “trọng phạm” của nhà Nguyễn, nên dù vua Tự Đức vì nể công ơn của Trương Đăng Quế và trọng thị khí khái trung trinh tiết liệt của vợ chồng Trương Đăng Đồ mà cho cải táng di hài về cố quận, nhưng mộ phần hai người vẫn không được dựng bia, năm tháng quạnh hiu nơi đồng vắng.
Trương tộc thế phả không cho biết Trương Đăng Đồ sinh vào năm nào, nhưng bằng vào tuổi của người anh trai thứ 3 là Trương Đăng Phác (1758 - 1801), có thể ước đoán Trương Đăng Đồ tuẫn tiết khi ông trên dưới 40 tuổi.
Về bà Nguyễn Thị Dung, vợ Trương Đăng Đồ, tài liệu thành văn không còn lại bao nhiêu ngoài mấy dòng trong Trương tộc thế phả và rải rác đó đây qua biên chép kín đáo của người đời, cho biết bà là em ruột Đô đốc Tây Sơn Nguyễn Văn Xuân, người làng Lạc Phố, phủ Mộ Hoa (nay thuộc xã Đức Nhuận, huyện Mộ Đức, Quảng Ngãi).
Thời son trẻ, bà kết giao với 4 kiều nữ nổi tiếng là Bùi Thị Xuân (sau là vợ danh tướng Trần Quang Diệu), Bùi Thị Nhạn (sau là Hoàng hậu của vua Quang Trung), Trần Thị Lan (sau là vợ Đô đốc Nguyễn Văn Tuyết) và Huỳnh Thị Cúc (em truột Đô đốc Huỳnh Văn Thuận), được người cùng thời mệnh danh là “Ngũ Phụng thư”.
Trước đây, vợ chồng Trương Đăng Đồ được kiêm tự tại nhà thờ thân phụ của ông là Trương Đăng Lượng (1725-1779) cùng bào huynh Trương Đăng Chấn. Trong tộc họ Trương, nhà thờ này gọi là Trung tông tự đường, phân biệt với Đại tông tự đường (thờ Trương Đăng Nhứt, Trương Đăng Trưởng), và Tiểu tông tự đường (thờ Trương Đăng Phác – thân sinh Trương Đăng Quế). Thời thế chuyển vần, chiến cuộc diễn ra triền miên trên mảnh đất Tịnh Khê, nhà thờ Trung Tông đổ nát rồi phai mờ dấu vết, đến nay vẫn chưa kịp trùng tu.
Từ năm 2011, sau khi Tiểu tông tự đường (còn có tên Từ đường Triêm Ân tử - gọi theo tước phong của nhà Tây Sơn cho Trương Đăng Phác) được phục dựng, con cháu trong dòng tộc rước linh vị vợ chồng Trương Đăng Đồ – Nguyễn Thị Dung về thờ tự cùng anh trai là Trương Đăng Phác.
Ông này là thân sinh của Trương Đăng Quế, làm quan đến chức Hữu Tuyên vũ phủ Hoà Nghĩa dưới triều Tây Sơn. Khi quân Nguyễn Ánh chiếm phủ Hoà Nghĩa (nay là vùng đất tỉnh Quảng Ngãi), người bạn thân là Thượng thư Đặng Đức Siêu biết ông là người tài đức đã bảo lãnh để ông được lưu chức và tiếp tục được trọng dụng, nhưng ông đã lặng lẽ quyên sinh, giữ trọn chữ “tôi trung không thờ hai chúa”.
Họ Trương Mỹ Khê nổi tiếng với các bậc danh thần lương đống triều Nguyễn như Trương Đăng Án (theo giúp Gia Long từ thời ở Gia Định, được phong tước Huyền Hoà bá), Trương Đăng Quế (Cố mệnh lương thần , Thái bảo, Cần chính điện đại học sĩ, lãnh Binh Bộ thượng thư, sung Cơ mật viện đại thần, quản lý Khâm thiên giám kiêm lĩnh Quốc tử giám sự vụ, sung Kinh diên giảng quan, sung Sử quán Tổng tài, tước Tuy Thạnh Quận Công), Trương Quang Đản (Đông các Đại học sỹ, Tổng tài Quốc sử quán, Phụ chánh đại thần triều Thành Thái), Trương Đăng Trinh (khai khoa Tiến sỹ của đất Quảng Ngãi)… Nhưng cũng chính dòng tộc ấy đã sinh trưởng nhiều văn thần - võ tướng của nhà Tây Sơn- triều đại đối nghịch với nhà Nguyễn, mà người nổi tiếng nhất chính là Tú Đức hầu Trương Đăng Đồ.
Đã hơn 2 thế kỷ, kể từ ngày cơ nghiệp nhà Tây Sơn sụp đổ. Chiếc ngai vàng đầy quyền uy một thời của nhà Nguyễn giờ chỉ còn trưng ở điện Thái Hoà cho khách đến nhìn qua. Sóng lớp phế hưng trôi qua trùng trùng thế sự, thời gian phủ rêu mờ lên bao nhiêu thân phận thế nhân. Kẻ được người thua giờ cũng lặng yên cùng nắm cỏ khâu vàng áy. Còn lại với người đời là sự nghiệp của những đấng anh hùng, là tấm gương của các bậc trung trinh, tiết liệt. Một người chiến bại oai hùng như ông Trương Đăng Đồ sẽ mãi mãi còn lưu danh trong sử sách cũng như trong câu chuyện truyền lưu giữa chốn nhân gian.
Lê Hồng Khánh
*Đón đọc kỳ tới: Đỗ Đăng Đệ (1814 – 1888)