(Baoquangngai.vn)-
Dù trình độ học vấn chỉ mới lớp 3, nhưng lợi dụng chức danh Tổ trưởng tổ vay vốn thôn, Đinh Thị Nú đã lập danh sách, giấy tờ giả và dùng chiêu 'vay đáo hạn ngân hàng' để lừa đảo, chiếm đoạt hàng tỷ đồng nhằm phục vụ mục đích cá nhân.
TIN LIÊN QUAN |
---|
Làm giả giấy để để lừa vay tiền
Năm 2015, Đinh Thị Nú (1965) dân tộc Hrê, ở thôn Đèo Rơn, xã Sơn Hạ (Sơn Hà) được bầu làm Tổ trưởng Tổ liên kết Hội phụ nữ thôn Đèo Rơn, xã Sơn Hạ, là người đại diện cho tổ thỏa thuận và ký hợp đồng dịch vụ tín dụng với Ngân hàng NN&PTNT huyện Sơn Hà và Ngân hàng Chính sách xã hội huyện Sơn Hà.
Theo hợp đồng, Đinh Thị Nú ký với Ngân hàng Chính sách xã hội và Ngân hàng NN&PTNT huyện Sơn Hà, nhiệm vụ của Nú là giới thiệu thành viên vay vốn, triển khai về cơ chế, chính sách, dịch vụ của ngân hàng, hướng dẫn lập hồ sơ vay vốn, đôn đốc quản lý người vay sử dụng tiền vay đúng mục đích, thu tiền lãi, tiền gửi của các thành viên trong tổ và nộp cho ngân hàng. Nú không có trách nhiệm vay tiền để đáo hạn ngân hàng cho các thành viên trong tổ vay vốn của mình.
Tuy nhiên, từ năm 2016 đến năm 2017, để có tiền trả nợ và tiêu xài, Đinh Thị Nú đã lợi dụng chức danh Tổ trưởng tổ vay vốn để vay tiền của một số người với lý do ‘vay đáo hạn ngân hàng’ hay vay cho người thân.
Để làm cho những người bị hại tin tưởng và cho vay tiền, Nú làm giả danh sách các thành viên trong tổ có nhu cầu vay tiền rồi giả chữ ký, điểm chỉ.
Chiêu trò 'vay đáo hạn ngân hàng' để lừa đảo dù đã cảnh báo nhiều lần nhưng không ít người vì cái lợi trước mắt vẫn mắc bẫy (ảnh minh hoạ) |
Biết vợ chồng ông Bùi Đ. và bà Lương Thị Kim H. ở xã Sơn Hạ là người cho vay tiền nên Đinh Thị Nú dùng thủ đoạn các thành viên trong tổ vay vốn có nhu cầu vay tiền để đáo hạn ngân hàng để vay tiền. Tin tưởng Nú, ông Đ. đồng ý cho Nú vay tiền với lãi suất từ 2-6%/tháng, tùy món vay.
Để tạo lòng tin với vợ chồng ông Đ., ngày 18.10.2016, Nú tự lập giả một bảng danh sách ‘Bảng kê nợ gốc Tổ liên kết Đèo Rơn đến ngày 30.9.2016, có 15 thành viên và chữ ký photo của người lập bản là ông Phạm Hoàng T. (cán bộ Ngân hàng NN&PTNT huyện Sơn Hà) với tổng số tiền vay 980 triệu đồng. Sau đó, Nú đưa cho ông Bùi Đ. để hỏi vay số tiền 980 triệu đồng, thời hạn trả nợ gốc là 7 ngày, lại suất 2 triệu đồng/ngày, khi nhận tiền Nú viết giấy mượn tiền.
Ngày 20.10.2016, Nú tiếp tục đến hỏi vay ông Đ. 55 triệu đồng và nói dối là vay cho người thân. Khi vay được tiền, Nú chiếm đoạt để trả nợ và tiêu xài cá nhân. Tiếp đến ngày 2.1.2017, Nú lập giả ‘Danh sách hộ gia đình thu nợ gốc Ngân hàng CSXH, chương trình vay vốn hộ nghèo’ có 16 thành viên vay vốn, có chữ ký photo của người lập mẫu bảng là Bùi Thị Hồng V. (cán bộ Ngân hàng CSXH) và mang đến đưa cho ông Đ hỏi vay số tiền 764 triệu đồng.
Vì trước đó, Nú vay số tiền lớn chưa trả nên ông Đ. nghi ngờ và yêu cầu gặp những người trong danh sách có nhu cầu vay vốn để đáo hạn thì Nú viện lý do các thành viên đều bận đi làm ăn nên khó tập hợp để gặp mặt. Để tạo niềm tin, Nú nói với ông Đ. sẽ lập danh sách đưa cho họ ký hoặc điềm chỉ rồi đưa cho ông Đ. thì ông Đ. đồng ý.
Nú về nhà dùng giấy vở học sinh viết tay một bảng danh sách gồm 16 người, tổng số tiền 764 triệu đồng, Nú nhờ các em nhỏ trong thôn ký giúp tên của những người trong danh sách, Nú nghĩ có những người không biết chữ nên Nú dùng tay của mình để điềm chỉ 6 người. Ngày 4.11.2016, Nú đem danh sách này đến đưa cho ông Đ. để vay 764 triệu đồng nói dối là để đáo hạn ngân hàng cho những thành viên trong danh sách.
Ông Đ. tin tưởng nên cho Nú vay, nhưng không đủ tiền nên chỉ cho Nú vay 400 triệu đồng. Nú lấy số tiền này tiêu xài cá nhân và trả nợ.
Khi đến hạn trả nợ, vợ chồng ông Đ. nhiều lần đến đòi nợ thì Nú chỉ trả được 550 triệu đồng gốc và 40 triệu đồng tiền lãi. Số tiền Nú chiếm đoạt của ông Đ. là 885 triệu đồng. Đến tháng 7.2017, nghe có người khác tố cáo Nú lừa đảo chiếm đoạt tài sản nên ông Đ. mới biết mình bị Nú lừa.
Cũng với thủ đoạn ‘vay đáo hạn ngân hàng’, từ năm 2016 đến năm 2017, Nú đã vay của bà Nguyễn Thị H. ở xã Sơn Hạ 5 lần với tổng số tiền 1,2 tỷ đồng; đồng thời, Nú lừa vay của ông Ngô Phi H. ở xã Sơn Hạ 3 lần với số tiền 121 triệu đồng để tiêu xài và trả nợ. Tổng số tiền Nú chiếm đoạt của ông Đ., bà H. và ông H. là trên 2,2 tỷ đồng.
Bản án 12 năm tù
Sau khi bị tố cáo lừa đảo chiếm đoạt tài sản, các chủ nợ nhiều lần đến nhà đòi nợ nên Nú bỏ đi khỏi địa phương. Đến ngày 26.3.2018, Đinh Thị Nú đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Quảng Ngãi để đầu thú.
Trước hành vi phạm tội của Đinh Thị Nú, Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi truy tố Đinh Thị Nú về tội ‘ Lừa đảo chiếm đoạt tài sản’ quy định tại điểm a, khoản 4 Điều 174 Bộ luật Hình sự.
Với hành vi phạm tội của minh, Đinh Thị Nú phải trả giả bằng bản án 12 năm tù |
Tại phiên tòa xét xử, người bào chữa cho Đinh Thị Nú cho rằng, nguyên nhân dẫn đến phạm tội là do khi chồng bị cáo Nú bị bệnh nặng cần tiền chữa trị, bị cáo phải vay mượn để chữa bệnh cho chồng, sau đó, bản thân bị cáo cũng bị bệnh cần điều trị và không thể lao động để tạo ra thu nhập. Vì vậy, bị cáo phải vay mượn của người này để trả cho người kia, cứ tiếp diễn như vậy suốt nhiều năm làm cho số nợ ngày càng nhiều.
Dần dần, bị cáo mất khả năng thanh toán nên mới thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Sau khi phạm tội, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và đã đến cơ quan Công an đầu thú; đồng thời, đã khắc phục một phần hậu quả gây ra.
Căn cứ hành vi phạm tội của bị cáo cùng các hồ sơ, tài liệu cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, tại phiên tòa phúc thẩm, Hội đồng xét xử TAND cấp cao tại Đà Nẵng đã tuyên án, xử phạt bị cáo Đinh Thị Nú 12 năm từ về tội ‘Lừa đảo chiếm đoạt tài sản’; đồng thời, buộc bị cáo phải hoàn trả lại số tiền đã chiếm đoạt cho các bị hại.
Cạm bẫy cho vay tiền đáo hạn ngân hàng với lãi suất cao, dù được cảnh báo rất nhiều, nhưng chiêu trò đã đánh trúng tâm lý của những người muốn kiếm tiền nhanh, khiến cho tình trạng lừa đảo bằng chiêu thức này vẫn còn diễn ra.
Vụ án trên cũng là hồi chuông cảnh báo cho những ai muốn “ngồi mát ăn bát vàng”, lợi dụng lòng tin của mọi người để lừa đảo chiếm đoạt tài sản bất chấp những quy định của pháp luật để rồi nhận lấy hậu quả bằng sự trừng phạt của pháp luật.
PV- CTV