Nguồn gốc và lịch sử Tết Dương lịch

03:12, 31/12/2012
.

(QNĐT)- Ngày tết đầu năm dương lịch còn gọi là ngày tết Tây, được bắt đầu vào ngày 1-1 mỗi năm. Tuy nhiên, ngược dòng thời gian chúng ta sẽ thấy Tết Dương lịch ngày nay có một hành trình khá dài.

Tết Dương Lịch đã có từ lâu đời, biến đổi qua nhiều thiên kỷ trong lịch sử tiến hóa của loài người và hôm nay vẫn còn tồn tại. Hiện nay thế giới đón Tết Dương Lịch “New Year” vào ngày 1 tháng Giêng, ngày Tết hôm nay không giống như vài trăm năm trước đây. Sự phổ biến rộng rãi để chấp nhận ngày 1 tháng 1 là ngày Tết Dương Lịch đã liên tục trong bốn trăm năm qua.

La Mã là quốc gia đầu tiên chọn ngày 1 tháng Giêng làm ngày New Year trong năm đầu tiên 153 trước Công nguyên. Trước đó, 25/3 là ngày xuân phân (vernal equinox) được chọn là ngày đầu năm. Ngày năm mới này đã được đa số những quốc gia Cơ đốc giáo ở châu Âu chấp nhận (khoảng thời Trung cổ 1.100-1.400 trước Công nguyên).
 

 

Trải qua một thời gian khá lâu những quốc gia này mới chấp nhận sự thay đổi ngày tháng cho New Year bởi vì đầu óc cố hữu của họ. Với ngày tháng tính toán cho New Year không được phổ thông như những phong tục đang được bảo giữ, nó cũng không phải là thời điểm hoa màu hay những vụ mùa đặc biệt gắn liền với ngày tháng đó. Cho nên người ta nghĩ đây chỉ là một ngày bình thường sau mùa bầu cử, sau thời gian các đại biểu trúng cử bắt đầu nhận nhiệm vụ mới trong chính quyền Đế quốc La Mã mà thôi.

Muốn thay đổi ngày tháng New Year đã có từ trước là một việc làm to lớn đầy khó khăn cho việc tính toán làm Lịch.

Thời Đế quốc La Mã, sự thay đổi ngày tháng cho năm mới của họ đã tính ngược lại ba tháng tới tháng Giêng (tức là tháng Ba trở thành tháng Giêng). Do không có qui tắc nào của Lịch, trước đây nguyên gốc tháng 9, 10, 11, 12 đã đổi thành 7, 8, 9, 10 rồi xếp theo tuần tự.

Thời gian sau này các vị Hoàng đế La Mã của mỗi chính thể đã đặt tên mới cho các tháng, ví dụ như tháng Chín gọi là “Germanucus”, “Antonius” và “Tacitus”, tháng 11 có tên khác là “Domitianus”, “Faustinus” và “Romanus”.

Những sự bất tiện đó đã thúc đẩy vua Julius Caesar thiết lập nên bộ Lịch mới. Lịch này được phát minh bởi nhà Thiên văn học người Hy Lạp Alexandria (tính hệ thống thời gian cho Lịch theo mặt trời). Caesar muốn thay đổi ngày đầu năm từ ngày 1 tháng Giêng mà ông cho là hợp lý nhất, sẽ phù hợp với một trong những điểm chí (Solstices) hay điểm phân (Equinoxes) và tiết khí.

Để tưởng nhớ tới ông, Thượng nghị viện đã dùng tháng sinh nhật của ông (Quintilis) đổi tên thành tháng Bảy (July). Đến đời cháu của vua Caesar là Hoàng đế Augustus cũng có một tưởng thưởng danh dự tương tự để trao tặng cho ông được đổi tên Sextilis thành tháng 8 “August” , vì ông có công sửa sai trong sự tính toán của năm nhuận.

Lịch này không có những sửa đổi quan trọng nào cho đến năm 1582 khi Giáo hoàng Gregory XII nhậm chức, ông đã hợp nhất phương pháp tính Lịch hiện đại để phân chia tháng năm. Giáo hoàng sửa đổi và xác nhận ngày của năm mới là ngày 1 tháng Giêng bất chấp mọi chống đối của các hiệp hội tín đồ Cơ đốc giáo.
 
Các nước theo đạo Công giáo tiếp nhận ngày “New Year” trong lịch Gregorian sớm nhất. Người Tin lành (bắc châu Âu), Hà Lan năm 1583; Scotland năm 1600; sau đó đến những nước theo đạo Tin Lành và Đức Quốc chấp nhận ngày “New Year” vào năm 1700, Nga năm 1725; Anh, Mỹ, Canada năm 1752 và Thụy Điển năm 1753. Tất cả đều đồng tình với việc xóa bỏ 11 ngày của năm nhuần 1700.

Những nước phương Đông ảnh hưởng của nhiều tôn giáo như Hindus, đạo Lão, Phật giáo, Hồi giáo nhưng họ cũng dùng lịch giống Cơ đốc giáo. Nhật Bản chấp nhận ngày “New Year” Dương lịch vào năm 1873 và Trung Quốc (1912).

Người Trung Hoa tính theo hệ thống quay của mặt trăng cho nên ngày New Year đều rơi vào tháng bắt đầu có trăng khoảng trước bốn hay tám tuần khi mùa xuân đến. Ngày chính xác có thể vào khoảng giữa ngày 21 tháng Giêng hay ngày 21 tháng Hai của lịch “Gregorian Calendar”. Lịch Trung Hoa thiết lập không giống như lịch “Gregorian Calendar”, bởi vì phạm vi của mùa thay đổi. Và mỗi năm có một ký hiệu tượng trưng với 12 con Giáp theo qui tắc Ngũ hành với chu kỳ 60 năm.

Trước khi dùng Dương lịch, người Việt dùng Âm lịch. Lịch do triều đình soạn và ban hành, dĩ nhiên có chịu ảnh hưởng của khoa thiên văn và phép làm lịch của Trung Quốc.
 

 

Đời vua Lê và chúa Trịnh (thế kỷ 16-18) tên gọi cơ quan làm lịch của triều đình là Tư Thiên Giám. Hàng năm, Tư Thiên Giám soạn sẵn lịch cho năm sau, đến tháng 6 Âm lịch thì viết hai bản thảo, rồi dâng lên vua Lê và chúa Trịnh xin tiền in. Vua xem bản thảo xong, giao cho Trung Thư Giám viết lại, có Tri Giám trông coi việc khắc bản in. Tư Thiên Giám kiểm tra lại các bản khắc rồi mới cho đem in. Trong tháng Chạp, Tư Thiên Giám dâng vua Lê bản lịch mới in xong. Sáng ngày 24 tháng Chạp các quan vào triều làm lễ tiến lịch theo nghi thức do Bộ Lễ quy định rất tỉ mỉ. (Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, tập II, Hà Nội: NXB KHXH, 1992, tr. 69.)

Thời nhà Nguyễn, năm Minh Mạng vừa lên ngôi (1820), Bộ Lễ tâu vua xin chọn ngày mồng 1 tháng Chạp thiết đại triều ở điện Thái Hòa để làm lễ ban lịch. Lịch do Khâm Thiên Giám (trực thuộc Bộ Lễ) soạn ra. Năm 1833 triều đình quy định vào tháng 5 Âm lịch, Khâm Thiên Giám ở Huế gửi lịch mẫu ra Hà Nội in để cấp phát cho địa bàn từ tỉnh Ninh Bình trở ra Bắc. Quảng Bình, Quảng Trị, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh do Huế cấp phát. Năm 1940, vua Minh Mạng thay đổi địa điểm ban lịch: thay vì trong điện Thái Hòa thì tổ chức trước Ngọ Môn. Lịch giao về tới làng xã sẽ do các lý trưởng gìn giữ để dân chúng xem chung. (Theo Nguyễn Thị Chân Quỳnh, tại http://vietsciences.free.fr).

Lễ ban lịch đời Nguyễn còn được gọi là lễ ban sóc hay chính sóc. Ngày rằm tức 15 Âm lịch gọi là vọng; ngày mùng 1 Âm lịch gọi là sóc; chính sóc là mùng 1 tháng giêng.

 

Quỳnh Nhi (tổng hợp)




 


.