(Baoquangngai.vn)- Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cùng với đường Trường Sơn, đường Hồ Chí Minh trên biển với những con "tàu không số" đã viết nên huyền thoại. Đường Hồ Chí Minh trên biển là thành quả sáng tạo độc đáo của đường lối chiến tranh nhân dân, thể hiện tầm nhìn chiến lược của Đảng ta và Bác Hồ, trở thành biểu tượng đầy tự hào của dân tộc Việt Nam.
[links()]
Đó còn là hiện thân của ý chí thống nhất đất nước, là tinh thần quyết thắng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Đường Hồ Chí Minh trên biển mãi lưu truyền trong lịch sử chống ngoại xâm, giành độc lập của dân tộc Việt Nam Anh hùng.
Con đường của ý chí và niềm tin
Mỗi dịp nhắc đến con đường Hồ Chí Minh trên biển huyền thoại là chạm đến trái tim của người dân Việt Nam qua bao thế hệ. Lịch sử đường Hồ Chí Minh trên biển cứ như những thước phim quay chậm, hiển hiện và đi vào lòng người với niềm xúc động và tự hào khôn tả. Ngày 23/10/1961 được khắc ghi trong lịch sử hào hùng của dân tộc, ngày mở đường Hồ Chí Minh trên biển.
Tháng 7/1959, Tiểu đoàn 603 trực thuộc Đoàn 559 được thành lập, có nhiệm vụ nghiên cứu tìm phương thức vận chuyển bằng đường biển chi viện vũ khí cho chiến trường miền Nam. Để giữ bí mật, Tiểu đoàn lấy tên là “Tập đoàn đánh cá Sông Gianh”. Cuối năm 1959, Tiểu đoàn 603 tổ chức chuyến thuyền vượt biển đầu tiên vào chiến trường Khu V nhưng không thành công, do vậy Tổng Quân ủy quyết định cho Tiểu đoàn 603 ngừng hoạt động để tìm phương án mới.
Ông Nguyễn Bốn kể về chuyến tàu không số khi cập bờ biển An Thổ, xã Phổ An, huyện Đức Phổ (nay là TX.Đức Phổ) vào năm 1966 |
Đầu năm 1960, cùng với phong trào Đồng khởi Bến Tre, phong trào cách mạng ở các tỉnh đồng bằng Nam Bộ chuyển mạnh lên thế tiến công và trở thành cao trào đồng khởi rộng khắp. Để đáp ứng yêu cầu vận chuyển vũ khí, hàng hóa chi viện cho chiến trường Nam Bộ và Nam Trung Bộ, trong khi vận chuyển đường bộ của Đoàn 559 trên dãy Trường Sơn chưa vươn tới, Tổng Quân ủy tiếp tục chỉ đạo Bộ Tổng Tham mưu khẩn trương nghiên cứu đề án mới về xây dựng và tổ chức lực lượng vận tải biển chi viện cho chiến trường Nam Bộ và Khu 5.
Từ giữa năm 1961 đến giữa năm 1962, lãnh đạo của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ở các tỉnh Bến Tre, Cà Mau, Trà Vinh và Bà Rịa đã cử 5 thuyền gỗ từ miền Nam ra miền Bắc để báo cáo tình hình, xin tiếp tế vũ khí và sau đó trực tiếp vận chuyển vũ khí, dẫn đường cho các tàu tiếp tế giả dạng tàu đánh cá từ Bắc vào Nam. Những chuyến thuyền vận chuyển thành công là một trong những cơ sở quan trọng để xúc tiến việc thành lập đoàn vận tải thủy tiếp tế vũ khí cho miền Nam.
Ngày 23/10/1961, Bộ Tổng Tư lệnh ra quyết định thành lập Đoàn 759 vận tải thủy. Quyết định thành lập Đoàn 759 thể hiện tầm nhìn chiến lược và sáng tạo của Bộ Chính trị, mà trực tiếp là Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh, đánh dấu mốc lịch sử quan trọng, mở ra bước phát triển mới của tuyến đường vận tải chiến lược trên biển chi viện cho chiến trường miền Nam. Ngày 23/10 trở thành Ngày truyền thống của Đoàn 759, tiền thân Lữ đoàn 125, Bộ Tư lệnh Vùng 2 - Quân chủng Hải quân ngày nay, đồng thời là Ngày mở Đường Hồ Chí Minh trên biển.
Đoàn cảm tử quân trên biển
Mỗi một chuyến vận chuyển vũ khí vào miền Nam trên đường Hồ Chí Minh trên biển là hiểm nguy nghìn trùng, không chỉ có vượt qua sóng to gió lớn, mà còn phải mưu trí, dũng cảm đối mặt với kẻ thù. Để bảo đảm bí mật cho tuyến đường vận tải đặc biệt, những chiếc tàu của Đoàn 759 phải cải hoán thành tàu đánh cá, không có số hiệu cố định, xen kẽ, trà trộn vào những đoàn tàu đánh cá của ngư dân địa phương trên biển, tên gọi “Đoàn tàu không số” được ra đời.
Đêm 11/10/1962, chiếc tàu gỗ đầu tiên do đồng chí Lê Văn Một làm thuyền trưởng, đồng chí Bông Văn Dĩa làm Chính trị viên tàu cùng 11 thủy thủ đã rời bến Đồ Sơn (Hải Phòng). Ngày 16/10, tàu cập bến Vàm Lũng (Cà Mau), 30 tấn vũ khí từ hậu phương miền Bắc đã được chuyển đến chiến trường miền Nam an toàn. Sau thắng lợi chuyến đi đầu tiên, 3 chuyến tiếp theo lần lượt vào Nam. Trong hai tháng, 4 chuyến tàu của Đoàn 759 đã vận chuyển được 111 tấn vũ khí cho Khu 9 an toàn.
Tàu không số vận chuyển hàng hóa, vũ khí trên Đường Hồ Chí Minh trên biển (Ảnh tư liệu) |
Đây là một thắng lợi to lớn, góp phần củng cố niềm tin và quyết tâm của quân dân miền Nam trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Khi tuyến đường vận tải biển được khai thông, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi điện biểu dương khen ngợi, đồng thời nhắc nhở cán bộ, chiến sĩ Đoàn 759 nhanh chóng rút kinh nghiệm, tiếp tục vận chuyển nhanh hơn nữa, nhiều hơn nữa vũ khí cho đồng bào miền Nam chiến đấu.
Những chuyến tàu vỏ gỗ đi vào Cà Mau thành công, khẳng định chúng ta có thể vận chuyển bằng đường biển lâu dài, cần phải có những phương tiện vận chuyển tốt hơn đi trong mọi thời tiết. Quân ủy Trung ương chủ trương nhanh chóng đầu tư, trang bị cho Đoàn 759 loại tàu vỏ sắt trọng tải từ 50 tấn đến 100 tấn. Ngày 17/3/1963, chiếc tàu vỏ sắt đầu tiên do đồng chí Đinh Đạt làm thuyền trưởng, đồng chí Nguyễn Văn Tiến làm chính trị viên chở 44 tấn vũ khí lên đường đến bến Trà Vinh an toàn. Chỉ trong 1 năm, Đoàn 759 đã thực hiện 29 chuyến hàng vào Nam Bộ, vận chuyển 1.430 tấn vũ khí cho chiến trường.
Phát huy kết quả vận chuyển bằng đường biển chi viện cho chiến trường Nam Bộ, Bộ Quốc phòng chỉ thị cho Khu 7 mở bến đón tàu. Đoàn 759 được lệnh chuẩn bị một tàu chở vũ khí đột phá mở đường mới vào bến Bà Rịa. Đêm 26/9/1963, chiếc tàu gỗ mang số hiệu 41 do đồng chí Lê Văn Một làm thuyền trưởng, đồng chí Đặng Văn Thanh là Chính trị viên tàu cùng 11 thuỷ thủ, chở 18 tấn vũ khí xuất phát tại cảng Bính Động (Hải Phòng) đã mở bến vào Bà Rịa thành công, chi viện vũ khí kịp thời cho Khu 7.
Tháng 8/1963, Quân ủy Trung ương quyết định giao Đoàn 759 trực thuộc Cục Hải quân. Ngày 29/1/1964, Bộ Quốc phòng quyết định đổi phiên hiệu Đoàn 759 thành Đoàn 125 trực thuộc Bộ Tư lệnh Hải quân. Từ năm 1962 - 1964, Đoàn 125 đã huy động 17 tàu vỏ sắt, 3 tàu vỏ gỗ, tổ chức 79 chuyến vận chuyển hơn 4.000 tấn vũ khí trang bị và cán bộ trung, cao cấp của Đảng và Quân đội vào miền Nam.
Tàu của Đoàn đã cập bến Bạc Liêu (Cà Mau) 43 lần, Bến Tre 17 lần, Trà Vinh 14 lần, Bà Rịa 2 lần, Phú Yên 2 lần, Bình Định 1 lần. Số vũ khí đã đến chiến trường Nam Bộ, cực Nam Trung Bộ và Khu 7 đúng lúc, trực tiếp góp phần cùng các lực lượng vũ trang giành nhiều thắng lợi oanh liệt như chiến thắng Ấp Bắc, Đầm Dơi, Cái Nước, Chà Là, Vạn Tường, Ba Gia, Bình Giã... làm thất bại về căn bản chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ - ngụy trên chiến trường miền Nam.
Công việc vận chuyển đang tiến triển thuận lợi thì xảy ra sự kiện Tàu 143 bị lộ ở Vũng Rô (Phú Yên) ngày 16/2/1965. Con đường vận chuyển chiến lược trên biển không còn giữ được bí mật nữa. Biết rõ ý đồ của ta, địch tăng cường tuần tiễu, phong tỏa và kiểm soát chặt chẽ. Việc vận chuyển vũ khí, hàng hóa quân sự chi viện cho chiến trường miền Nam bằng đường biển gặp muôn vàn khó khăn, tuy vậy vẫn không ngăn được ý chí, quyết tâm của những chiến sĩ hải quân.
Công tác chuẩn bị cho chuyến mở đường được tiến hành khẩn trương, chặt chẽ, chu đáo. Đoàn 125 tiếp tục tổ chức nhiều chuyến tàu chở hàng trăm tấn vũ khí vào miền Nam an toàn. Với tinh thần “Thần tốc, táo bạo chở người và vũ khí vào mặt trận” phục vụ Chiến dịch Hồ Chí Minh, bất chấp mọi hiểm nguy, Đoàn 125 đã tổ chức hàng trăm lượt tàu ra khơi, chở hàng chục nghìn tấn hàng, đưa hàng chục nghìn cán bộ, chiến sĩ từ hậu phương ra tiền tuyến, góp phần giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Đường Hồ Chí Minh trên biển là một thiên anh hùng ca bất tử. Trong đội ngũ trung kiên của Đoàn 125, có nhiều tấm gương hy sinh anh dũng, nhiều con tàu ra đi không trở lại, nhiều đồng chí, đồng đội đã vĩnh viễn yên nghỉ nơi biển cả mênh mông. Con đường vận chuyển trên biển trở thành một kỳ tích, huyền thoại của dân tộc Việt Nam. Lịch sử đường Hồ Chí Minh trên biển và những chiến sĩ hải quân quả cảm năm xưa mãi được thế hệ trẻ hôm nay và mai sau ghi nhớ với lòng biết ơn vô hạn.
NHỮNG NĂM THÁNG KHÔNG QUÊN
Ông Nguyễn Bốn (72 tuổi) ở thôn An Thổ, xã Phổ An (TX.Đức Phổ) bồi hồi nhớ lại ký ức về tàu không số. "Vào đêm 26/11/1966, đó là đêm đón con tàu không số mang mật danh C41 cập vào bờ biển thôn An Thổ”, ông Bốn mở đầu câu chuyện. Khi đó, ông Bốn là du kích địa phương. Ông cùng 9 đồng chí được phân công nhiệm vụ canh gác, quan sát trên bãi biển An Thổ.
Lúc tàu C41 cập bến là 2 giờ sáng. Ông Bốn cùng các chiến sĩ du kích địa phương và 15 chiến sĩ trên tàu nhanh chóng vận chuyển vũ khí, thuốc men đưa vào hầm cất giấu. “Đêm đó mưa to, gió lớn nên các thuyền viên trên tàu C41 khó bắt tín hiệu, cập bờ chậm trễ. Ngay sau khi tàu thả neo, chúng tôi dốc toàn bộ sức lực vận chuyển vũ khí song vẫn không thể đưa hết lên bờ. Trong vòng hơn 2 tiếng đồng hồ, đoàn đưa được khoảng 2/3 vũ khí vào nơi cất giấu an toàn”, ông Bốn nhớ lại.
Khoảng hơn 4 giờ sáng, phát hiện ngoài khơi có tàu địch hoạt động, cấp ủy chi bộ và thuyền trưởng Hồ Đắc Thạnh quyết định hủy tàu. Các thủy thủ được lệnh bơi vào bờ, còn thuyền trưởng Thạnh và máy trưởng Phan Nhạn ở lại châm ngòi nổ rồi rút sau. Sau khi lên bờ nhận thấy kích nổ trên tàu vẫn chưa phát nổ nên thuyền phó Dương Văn Lộc và thủy thủ Trần Nhợ cùng bơi ra kiểm tra. Song, vừa ra tới mé nước thì tàu C41 phát nổ làm rung chuyển mặt biển, mảnh sắt thân tàu văng xa, sức công phá của thuốc nổ quá mạnh làm 2 đồng chí và 3 du kích địa phương hy sinh. Còn 13 chiến sĩ thủy thủ của tàu C41 được quân và dân địa phương đưa về nơi che giấu an toàn.
Trước khi cho nổ tàu, số vũ khí còn lại trên tàu được thả xuống biển. Khoảng 1 tháng sau, du kích địa phương đóng giả làm ngư dân đánh bắt trên biển để vớt số vũ khí này lên. Ông Nguyễn Xinh (80 tuổi), ở thôn An Thổ, năm ấy là một trong những người được đơn vị giao thực hiện nhiệm vụ này. Ông Xinh kể: “Trên thuyền tôi có 5 đồng chí. Tất cả đều biết bơi. Ban ngày chúng tôi đã lặn xuống biển để quan sát, xác định vũ khí. Đến đêm kéo số vũ khí lên bờ đưa vào hầm bí mật”. Vừa làm nhiệm vụ vừa tránh tầm ngắm của địch nên việc vớt vũ khí kéo dài hơn 1 tháng. Khi toàn bộ vũ khí được đưa đến điểm an toàn, lực lượng du kích địa phương khẩn trương vận chuyển vũ khí chi viện cho chiến trường miền Nam đánh Mỹ.
|
ANH TUẤN - PHƯƠNG LÝ - ĐĂNG SƯƠNG