(Baoquangngai.vn)- Cách đây tròn 65 năm, Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ"lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu" là mốc son chói lọi trong truyền thống đoàn kết, đấu tranh chống lại các thế lực ngoại xâm của dân tộc ta.
TIN LIÊN QUAN |
---|
Trong những năm từ 1947 đến 1953, quân và dân ta liên tiếp giành nhiều thắng lợi quan trọng trong các chiến dịch Việt Bắc- Thu Đông, năm 1947, chiến dịch Biên giới năm 1950... làm cho cục diện chiến tranh ở Việt Nam và Đông Dương ngày càng chuyển biến, tạo ra thế bất lợi đối với thực dân Pháp.
Để cứu vãn tình thế, thực dân Pháp tập trung xây dựng Điện Biên Phủ thành tập đoàn cứ điểm mạnh nhằm ngăn chặn, thu hút, làm tiêu hao quân chủ lực của ta, đồng thời khống chế toàn bộ vùng Tây Bắc nước ta và Thượng Lào. Do đó, thực dân Pháp bố trí lực lượng ở Điện Biên Phủ lúc cao nhất đến 16.200 quân và nhiều vũ khí, phương tiện hiện đại tại 49 cứ điểm, với 3 phân khu. Vì vậy, thực dân Pháp rất tự tin, cho rằng cứ điểm Điện Biên Phủ là môt pháo đài "bất khả xâm phạm".
Ngày 6.12.1953, Bộ Chính trị Đảng ta họp và quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp được cử làm Bí thư Đảng ủy kiêm Tư lệnh Bộ chỉ huy Chiến dịch. Lúc bấy giờ, cán bộ, chiến sĩ đều hăng hái triển khai kế hoạch đánh nhanh. Tuy nhiên, trước tình hình địch tăng cường lực lượng, thay đổi trận địa, sau khi nhận được ý kiến của đại tá Phạm Kiệt đề nghị xem xét lại cách đánh; đồng thời cùng với những tin tức trinh sát từ các mặt trận gửi về...
Tại cuộc họp khẩn của Đảng ủy Mặt trận, Đại tướng Võ Nguyên Giáp quyết định chuyển phương châm tác chiến từ "đánh nhanh, giải quyết nhanh" sang phương châm tác chiến và kế hoạch mới "đánh chắc, tiến chắc".
Điện Biên Phủ có địa hình rừng núi, hiểm trở, việc di chuyển khó khăn do có nhiều đèo cao, vực sâu. Để bảo đảm các điều kiện cho Chiến dịch thắng lợi tron vẹn, Trung ương Đảng, Bác Hồ đã tập trung, đẩy mạnh vận động, phát huy được sức mạnh của cả hậu phương và tiền tuyến nhằm cung cấp đầy đủ các điều kiện về hậu cần, kỹ thuật, phương tiện cho bộ đội tham gia trận quyết chiến lịch sử này.
Nghị quyết của Bộ Chính trị và Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được quân dân cả nước tích cực hưởng ứng sôi nổi, đồng lòng, dốc sức cho Chiến dịch. Bên cạnh 55.000 quân chủ lực, hơn 10 vạn người gồm: lực lượng dân công, thanh niên xung phong, và các lực lượng khác đã tham gia Chiến dịch, trên tinh thần tất cả tập trung cho Chiến dịch Điện Biên Phủ.
Theo các tài liệu, sách báo... ghi lại, trong 210 ngày, từ tháng 11.1953 đến tháng 5.1954, có hơn 261 nghìn dân công hỏa tuyến, trong đó có 18.200 cán bộ, đội viên, thanh niên xung phong trực tiếp tham gia, làm mới 89 km đường và sữa chữa hơn 500km đường giao thông...
Đặc biệt, sự sáng tạo độc đáo, biểu hiện trí thông minh của nhân dân ta, làm cho thực dân Pháp hết sức bất ngờ và thán phục. Đó là việc sử dụng các phương tiện thô sơ và xe đạp thồ là phương tiện chính. Quân dân các địa phương đã huy động 22.000 lượt xe đạp thồ, 11.800 thuyền bè, 1.800 mảng nứa, 756 xe thô sơ, 914 con ngựa thồ, xe trâu, một đội ô tô 628 chiếc... đã vận chuyển 30.759 tấn lương thực, thực phẩm, vũ khí, quân dụng... phục vụ Chiến dịch.
Trải qua 56 ngày đêm "khoét núi, ngủ hầm...", thông qua phương châm tác chiến phù hợp, đầy thông minh, sáng tạo, với sự chuẩn bị kỹ lưỡng, chu đáo, sự tập trung lãnh đạo, chỉ huy của Đảng ủy, Bộ chỉ huy Chiến dịch, bằng quyết tâm cao độ, với 3 đợt tấn công bất ngờ, sấm sét, các lực lượng của quân đội ta đã đập tan tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, một pháo đài mà thực dân Pháp khẳng định là không thể công phá và " bất khả xâm phạm". Kết quả, bắt sống tướng De Castries, loại khỏi vòng chiến đấu hơn 16 nghìn tên địch, tịch thu toàn bộ vũ khí, quân trang, quân dụng, phương tiện của địch, kết thúc chiến dịch và giành thắng lợi vang dội.
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu" kết thúc 9 năm trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân ta, buộc thực dân Pháp phải ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ, chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương.
Đến nay, qua 65 năm, đã có nhiều tìm hiểu, nghiên cứu sâu, đúc rút những bài học, những ý nghĩa lịch sử, giá trị to lớn của Chiến thắng Điện Biên Phủ, một mốc son chói lọi trong lịch sử nước ta.
Trước tiên, phải khẳng định sự lánh đạo tài tình, đầy sáng tạo của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quy tụ, tập hợp, khơi dây, phát huy cao độ lòng yêu nước, thương nòi của nhân dân ta, dân tộc ta; làm cho nhân dân ta thấy rõ lợi ích sống còn của dân tộc mà đoàn kết chiến đấu chống thực dân xâm lược, giành độc lập tự do, đã tạo nên sức mạnh vô địch của cuộc chiến tranh nhân dân, toàn dân và chính nghĩa trong chiến dịch Điện Biên Phủ.
Đồng thời, còn là bài học về tinh thần đoàn kết, sự kết tinh trí tuệ, bản lĩnh kiên cường và truyền thống yêu nước, bất khuất của toàn thể dân tộc Việt Nam, bài học về nghệ thuật quân sự; bài học về phát huy, hiệu triệu sức mạnh toàn dân tộc; bài học về thế trận lòng dân, sức mạnh của cuộc chiến tranh nhân dân để làm nên một trong những chiến thắng vĩ đại nhất trong thế kỷ 20.
Tuấn Anh