Văn bia Đồng Đế và văn bia Sa Môn: Khắc ghi câu chuyện xưa

06:03, 05/03/2023
.
(Báo Quảng Ngãi)- Bia mộ ở Đồng Đế (Đồng Đế mộ bi) và bia mộ ở Sa Môn (Sa Môn mộ bi) là 2 bia đá khắc văn bia trước mộ thân phụ và thân mẫu Trương Đăng Quế (1793 - 1865), do chính ông tạo lập, đặt tên và viết bi minh vào mùa xuân năm Tự Đức thứ 6 (1853), khi được nhà vua cho phép về thăm quê, sửa sang phần mộ song thân.
[links()]
 
Tiểu tông tự đường, nơi thờ phụng song thân Trương Đăng Quế, ở xã Tịnh Khê (TP.Quảng Ngãi). ẢNH: LHK
Tiểu tông tự đường, nơi thờ phụng song thân Trương Đăng Quế, ở xã Tịnh Khê (TP.Quảng Ngãi). ẢNH: LHK
Theo bi văn, năm Gia Long thứ 18 (Kỷ Mão - 1819), Trương Đăng Quế đỗ Hương tiến, đến năm Minh Mệnh nguyên niên (1820) được triệu ra Kinh, 2 năm sau nhậm chức Biên tu ở Hàn Lâm viện, thăng dần đến Thượng thư bộ Binh, Cần Chánh điện Đại học sĩ, tước hiệu Quận công. Như vậy, thời gian từ lúc Trương Đăng Quế rời quê nhà Quảng Ngãi cho đến khi ông được phép trở về thăm cố quận dài đến 33 năm. Trong khoảng thời gian này, gia đình và bản thân ông trải qua biết bao thay đổi. Mẹ ông - Thái phu nhân họ Đỗ, mất năm 1823, ba năm sau khi ông ra Huế, ở thế 59 năm, an táng ở xứ đồng Sa Môn, thuộc xã Tư Cung, huyện Bình Sơn, phủ Quảng Nghĩa (nay là xã Tịnh Khê, TP.Quảng Ngãi). 
 
Văn bia Đồng Đế.
Văn bia Đồng Đế.
Trên văn bia Đồng Đế là ông Trương Đăng Phác - cháu đời thứ 5 của Trương Đăng Trường (Tiên tổ dòng họ Trương làng Mỹ Khê), sinh năm Mậu Dần - 1758, mất năm Tân Dậu - 1801, hưởng dương 44 tuổi, an táng ở xứ đồng Đồng Đế, xã Tư Cung  (nay là xóm Khê Thọ, thôn Mỹ Lại, xã Tịnh Khê). Năm đó Trương Đăng Quế mới 9 tuổi. Theo lời bà Thục Nhân (Hiển tổ tỷ của Trương Đăng Quế), ông Trương Đăng Phác là người thông minh từ bé, lớn lên chăm học và quảng giao, tiếp xúc với nhiều kẻ sĩ đương thời.
 
Thời Tây Sơn, ông Trương Đăng Phác ra cộng tác, từng giữ chức tri huyện Mộ Hoa (sau đổi là Mộ Đức, nay là huyện Mộ Đức và TX.Đức Phổ), sau thăng chức Hữu Tuyên vũ phủ Hòa Nghĩa (Quảng Nghĩa), được ban tước Triêm Ân tử. Ông là người gần dân, nổi tiếng thanh liêm, khoan thứ, được dân chúng mến chuộng. Khi Nguyễn Ánh đánh bại Nhà Tây Sơn, lập ra Nhà Nguyễn, Trương Đăng Phác được người bạn thân là Đặng Đức Siêu, Thượng thư bộ Lễ, lấy thanh danh mà tiến cử, nhưng ông qua đời khi chưa kịp ra làm quan nhà Nguyễn. 
 
Trong bài văn bia, Trương Đăng Quế nêu lý do người cha Trương Đăng Phác mất là do lâm bệnh. Tuy nhiên, theo truyền ngôn rất đáng tin cậy trong dòng họ, ông Trương Đăng Phác mặc dù rất cảm kích sự ưu ái của người bạn thân Đặng Đức Siêu nhưng cũng biết thời cuộc đã xoay chiều, vận số Triều Tây Sơn đã mãn, lại cũng không có gì để oán hận Gia Long - Nguyễn Ánh, nên ông tự vẫn để giữ tròn khí tiết.
 
Cách viết trong văn  bia Đồng Đế như có phần kín đáo gợi liên tưởng cho hậu thế: “Ô hô! Tiên khảo sinh bất phùng thời, hựu hưởng niên bất vĩnh, tề chí dĩ một, thống tai!” (Than ôi! Tiên khảo sinh chẳng gặp thời, lại hưởng thế không được dài lâu, ôm chí nguyện mà mất, thật đau đớn thay!), và rằng: “Tức quan kỳ sở thủ hữu, dữ tại áp kì dân, chí kim do ái tư chi, tắc kì tài học chi xuất chúng, huệ chính chi tại nhân, cố dĩ mục nhiên khả tư hỹ” (Xem những người bạn mà tiên khảo đã kết giao, cùng với những người dân kì cựu trong ấp đến nay vẫn còn luyến nhớ tiên khảo, thì thấy tiên khảo là người tài học xuất chúng, làm chính sự thì thương yêu dân, điều này hẳn nhiên lặng nghĩ cũng biết vậy”.
 
Văn bia Sa Môn.
Văn bia Sa Môn.
Điều “hẳn nhiên lặng nghĩ cũng biết vậy”, là điều gì? Cái “chí nguyện” mà Trương Đăng Quế muốn nhắc đến phải chăng là lẽ đạo “Trung thần bất sự nhị quân” (tôi trung không thờ hai chúa), vốn đã nhập vào tâm thức của kẻ sĩ, nguyện trọn đời học theo đức sáng của các bậc tiên nho?
 
Về người mẹ, trong Sa Môn bi văn, Trương Đăng Quế cho biết mẹ ông họ Đỗ, con gái út của quan Khâm sai cai cơ, có tên húy là Văn Thùy. Đối chiếu theo gia phả, bà có tên họ đầy đủ Đỗ Thị Thiết, là người “vốn quen nữ huấn, chăm giữ khuê nghi, hiếu thuận với cha mẹ chồng, hòa thuận với chị em dâu, cư xử trong gia đình không ai chê trách”.
 
Khi người chồng là ông Trương Đăng Phác chẳng may mất sớm, bà giữ trọn tiết nghĩa, cung kính phụng dưỡng mẹ chồng, nuôi nấng chăm lo các con ăn học. Dù cảnh nhà ngày một sa sút, bà vẫn dặn dò các con thực hiện chí nguyện của người cha đã khuất, rèn luyện nên người để mai sau giúp ích cho đời, xứng danh kẻ sĩ trong thiên hạ.
 
Hai văn bia mang lại cho người đời sau nhiều thông tin quý giá về dòng họ Trương ở làng Mỹ Khê, về cuộc đời và hành trạng của Trương Đăng Quế, về các mối quan hệ vua tôi, tôn tộc, bằng hữu, trong bối cảnh xã hội đương thời.
 
LÊ HỒNG KHÁNH
 
 

.