GS.TS Ngô Đức Thịnh: Người nặng lòng với quê hương Quảng Ngãi

09:06, 25/06/2020
.
(Báo Quảng Ngãi)- Giáo sư, Tiến sĩ Ngô Đức Thịnh - một nhà nghiên cứu có nhiều đóng góp lớn lao trên lĩnh vực văn hóa học, dân tộc học, văn hóa dân gian; một nhà giáo chuẩn mực được nhiều thế hệ sinh viên, nghiên cứu sinh yêu quý đã về cõi vĩnh hằng vào ngày 6.6.2020, thọ 76 tuổi. Ông đã dạy cho tôi và đồng nghiệp về chính quê hương Quảng Ngãi, đặc biệt trong những lần may mắn cùng ông đi lang thang ở một vài nơi trên vùng đất núi Ấn - sông Trà.
 
Một sự may mắn lớn lao
 
Tôi có một may mắn lớn của đời mình là được GS.Ngô Đức Thịnh hướng dẫn làm luận án tiến sĩ về văn hóa dân gian, từ năm 1998. Nhưng quả thật là khi bước vào làm luận án, tôi có nhiều lúng túng. Bởi tôi không được đào tạo từ chuyên ngành văn hóa dân gian (vì trước đó tôi chỉ được đào tạo chuyên ngành về Văn học phương Tây và sau về giảng dạy môn này ở Trường Đại học Quy Nhơn). Dù vậy, khi tôi trình bày về những gì mình thu thập được từ dọc biển đảo quê nhà (trong mấy năm chuyển về làm việc ở Quảng Ngãi), như vài ghi chép về Lễ Khao lề thế lính Hoàng Sa, Lễ cầu ngư, Lễ đua thuyền trên biển, hát bả trạo, hát sắc bùa, vài chuyện kể, một số câu ca dân gian ở Cù Lao Ré - Lý Sơn... thì GS.Ngô Đức Thịnh (lúc đó là Phó Giáo sư, hướng dẫn 1), GS.Nguyễn Chí Bền (lúc đó là Tiến sĩ, hướng dẫn 2), cùng GS.Tô Ngọc Thanh, GS.Trần Quốc Vượng, Phó Giáo sư Trần Lâm Biền và một vài thầy, cô khác ở Viện Nghiên cứu Văn hóa nghệ thuật (nay là Viện Văn hóa nghệ thuật Quốc gia Việt Nam) đã khuyến khích tôi viết về những chuyện đó. 
 
Giáo sư Ngô Đức Thịnh còn bảo tôi: Đây là luận án tiến sĩ đầu tiên của cả nước về văn hóa biển, nên cần phải cố gắng nhiều; tư liệu về văn hóa biển thì thiếu, nên tăng cường đọc và khảo sát kỹ. Cần chú ý đến văn hóa biển Lý Sơn, vì chúng quá độc đáo.
 
Giáo sư Ngô Đức Thịnh (thứ 3 từ trái sang) thăm mộ Ân Quang hầu Trần Công Hiến tại xã Bình Dương (Bình Sơn) năm 2007.                   ẢNH: NVCC
Giáo sư Ngô Đức Thịnh (thứ 3 từ trái sang) thăm mộ Ân Quang hầu Trần Công Hiến tại xã Bình Dương (Bình Sơn) năm 2007. ẢNH: NVCC
Quả thật, đó là một sự may mắn lớn lao của tôi, để đến bây giờ tôi vẫn luôn quan tâm đến văn hóa, lịch sử biển đảo quê nhà, đặc biệt là về lịch sử, văn hóa gắn liền với Đội Hoàng Sa trong nhiều thế kỷ trước. Và cũng nhờ sự may mắn ban đầu, mà sau này tôi có thêm một cuốn sách là “Văn hóa dân gian của cư dân ven biển Quảng Ngãi”, Nxb Văn hóa dân tộc, in năm 2016. Công trình này được hai giải thưởng: Giải A của Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam năm 2003 (khi còn bản thảo); Giải A - Giải Văn học nghệ thuật Phạm Văn Đồng lần thứ nhất, 2019 (khi đã in thành sách).
 
Nhưng, có lẽ, sự may mắn đó không phải chỉ dành cho tôi, mà còn cho quê hương Quảng Ngãi, vì chính GS.Ngô Đức Thịnh cùng các giáo sư đầu ngành khác về văn hóa, lịch sử đã gợi mở cho nhiều nhà nghiên cứu, đặc biệt là các sinh viên, các nghiên cứu sinh tiếp tục nghiên cứu về biển, đảo Quảng Ngãi, về quê hương Lý Sơn.
 
Góc nhìn về văn hóa biển của GS.Ngô Đức Thịnh
 
Khi dạy chúng tôi, lẫn khi thầy viết, GS.Ngô Đức Thịnh nêu quan điểm: “Người Việt không có nguồn gốc biển mà cơ bản là cư dân sống ở vùng trước núi (gồm cả trung du) tràn xuống khai thác đồng bằng chiêm trũng, rồi lấn biển và khai thác biển”. Và ông kết luận: “Người Việt có truyền thống văn hóa biển cận duyên. Đặc trưng cơ bản của truyền thống biển cận duyên là sự kết hợp, gắn kết chặt chẽ giữa sản xuất nông nghiệp và hoạt động đánh bắt hải sản. Nói cách khác, việc khai thác hải sản chỉ là một bộ phận trong cơ cấu nền kinh tế nông nghiệp truyền thống"... 
 
Khi làm luận án, lẫn khi tiếp tục nghiên cứu thêm về đảo Lý Sơn và nhiều nơi khác ở ven biển, tôi càng thấy điều này là đúng. Sau này, khi tiếp tục nghiên cứu về Đội Hoàng Sa, tôi cũng có viết thêm về việc một bộ phận người Lý Sơn lẫn vùng cửa biển Sa Kỳ sớm ra đại dương (ngay từ đầu thế kỷ XVII) và cũng nhờ đó mà các triều đại phong kiến Việt Nam, từ thời các chúa Nguyễn, đến thời Tây Sơn, thời nhà Nguyễn mới xác lập được chủ quyền ở quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Nhưng cuối cùng, thì họ vẫn chỉ là những người nông dân sống trên môi trường biển bị buộc phải vươn ra biển lớn. 
 
Có lẽ trong thành tựu nghiên cứu khoa học của GS.Ngô Đức Thịnh, theo tôi, không chỉ có Đạo Mẫu, Sử thi Tây Nguyên là nổi bật nhất, như nhiều người đã nói, mà còn có thành tựu lớn khi nghiên cứu, cũng như khi gợi mở về nghiên  cứu văn hóa biển, đảo. Cụ thể, ngoài những bài ông viết về văn hóa biển, trong đó có biển đảo Quảng Ngãi, thì công trình “Văn hóa dân gian làng ven biển” do ông chủ biên, với sự góp sức của các nhà khoa học có uy tín khác (Nxb Văn hóa dân tộc, 2000, 684 trang), là một công trình nghiên cứu khá toàn diện về phong tục, tập quán, tín ngưỡng, lễ hội, tri thức về biển của cư dân ven biển Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ và là công trình nghiên cứu văn hóa biển đầu tiên ở Việt Nam.
 
Rất tiếc, là công trình này mới chỉ dừng lại ở các làng biển phía Bắc, như Trà Cổ, Quan Lạn, Đồ Sơn, Nhượng Bạn, Phương Cần, Cảnh Dương..., mà chưa kịp in tập 2, như dự kiến, là về các làng biển phía Nam.
GS.TS Ngô Đức Thịnh sinh năm 1944 tại Hải Hậu, Nam Định. Năm 1980, ông bảo vệ luận án Tiến sĩ và sau đó, vào năm 2002 được phong hàm Giáo sư. Từ năm 1994 - 2004, ông là Viện trưởng Viện nghiên cứu văn hóa dân gian Việt Nam, nay là Viện nghiên cứu văn hóa Việt Nam, kiêm Tổng Biên tập Tạp chí Văn hóa dân gian. Sau năm 2004, ông là Giám đốc Trung tâm nghiên cứu và bảo tồn văn hoá tín ngưỡng Việt Nam, Ủy viên Hội đồng Di sản văn hóa Quốc gia và Phó Chủ tịch Hội đồng Folklore Châu Á, được Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2017. Sau một thời gian dài bị bạo bệnh, ông mất ngày 6.6.2020.
Cái gì thuộc về cộng đồng hãy trả về cho cộng đồng
 
Đó là lời khuyên của GS.Ngô Đức Thịnh. Nhờ lời khuyên này mà chúng tôi đã “áp dụng” ngay vào chính Lễ Khao lề thế lính Hoàng Sa từ nhiều năm trước. Lễ Khao lề thế lính Hoàng Sa là một lễ thức văn hóa tín ngưỡng của các tộc họ trên đảo Lý Sơn và một số nơi khác trong tỉnh Quảng Ngãi có từ thuở xa xưa. Có lẽ có từ khi Đội Hoàng Sa bắt đầu được thành lập vào thời chúa Nguyễn. Nhưng vì nhiều lý do khác nhau, nên lễ thức đó ít khi được tổ chức, nếu có thì chỉ tổ chức nhỏ, phối hợp trong lễ cúng việc lề đầu xuân của một vài tộc họ có những vị Cai đội Hoàng Sa thời Tây Sơn, thời nhà Nguyễn. Năm 2005, nhờ sự hỗ trợ từ một đề tài nghiên cứu khoa học của Viện Văn hóa nghệ thuật, chúng tôi đã tổ chức phục dựng lễ thức này. 
 
Vào các năm 2008, 2010, 2013, lại được ngành văn hóa tỉnh hỗ trợ phục dựng quy mô lớn và sau đó Lễ Khao lề thế lính Hoàng Sa được công nhận là di sản phi vật thể quốc gia. Song dù có được hỗ trợ, thì chủ thể của Lễ Khao lề vẫn là 13 dòng họ tiền hiền lẫn các dòng họ hậu hiền trên đất đảo Lý Sơn. Họ chính là những người tự nguyện đứng ra tổ chức lễ thức này hằng năm mà không ai có thể làm thay cho họ, ngay cả chính chúng tôi, là những người đề xuất phục dựng lại lễ thức này.
 
Có lẽ lời khuyên trên không chỉ “áp dụng” cho lễ khao lề, mà hình như còn cho tất cả những loại hình văn hóa truyền thống của cộng đồng các dân tộc, các vùng miền khác. Hiện nay, ở đâu đó, khi có một đơn vị, một tổ chức đi làm thay cho cộng đồng về một loại hình văn hóa dân gian, thì ta cũng dễ dàng nhận ra những sự sai lệch không đáng có.
 
“Ngày nay con người có còn hòa hợp nữa hay không?”
 
Đó là lời của GS.Ngô Đức Thịnh viết cho tôi vào ngày 8.9.2009, khi ông cùng chúng tôi đi dự lễ hiến sinh trâu của người Ca Dong trên huyện Sơn Tây. Thư ông viết cho tôi có ghi: “Thực ra khi dự lễ ăn trâu của người Ca Dong, mình bị choáng ngợp bởi sức sống và sức mạnh của nó và từ đó đến nay mình cứ suy nghĩ mãi. Phải chăng, sức sống và sức mạnh của nó có được là ở bên cột ăn trâu đã diễn ra một cuộc đại hoà hợp giữa con người với thiên nhiên, con người với thần linh và con người với con người, mà trong xã hội cổ truyền con người đã tạo ra được sự hoà hợp tuyệt diệu đó. Và đó cũng là triết lý sống, lẽ sống của họ. Nói điều đó ra cũng là để nói, ngày nay con người có còn được sự hoà hợp đó nữa hay không và điều đó cũng để cắt nghĩa sự tha hoá của con người hiện đại”.
 
Kèm theo thư này, ông có gửi cho tôi bài viết có tên gọi là “Triết lý sống bên cột ăn trâu”, để tôi in vào cuốn “Sơn Tây - xưa và nay”. Giờ đây khi đọc lại mấy dòng thư, kèm theo bài viết ngắn 3 trang, tôi thấy lòng mình trĩu nặng và buồn khôn xiết. Không phải chỉ là nhớ những ngày đó cùng ông và một vài anh chị ở Viện Văn hóa nghệ thuật, Viện Văn hóa dân gian, lên tận vùng núi cao ở Quảng Ngãi với bao nhọc nhằn, mà nghĩ về những điều thầy trăn trở, sẻ chia về sự tha hóa của con người. Trong bài viết, ông còn đặt ra câu hỏi: “Đã bao giờ chúng ta tự hỏi, con người của xã hội “nguyên thuỷ” đã thiết lập nên mối quan hệ giữa con người và tự nhiên, đặc biệt là thiêng hoá tự nhiên để bảo vệ tự nhiên như vậy sẽ có ý nghĩa như thế nào trong việc bảo vệ thiên nhiên, bảo vệ môi trường sống đang bị huỷ hoại như ngày nay?”...
 
 
TS.NGUYỄN ĐĂNG VŨ
 
 
 
 
 

.