(Báo Quảng Ngãi)- Trong ký ức và tâm thức của mỗi con người Việt Nam, ngày Quốc khánh 2.9 là một ngày trọng đại của dân tộc: Đó là Ngày Độc lập. Độc lập cho dân tộc và cho mỗi con người, ngày mà Chủ tịch Hồ Chí Minh long trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Tròn 75 năm đã qua, nhưng âm vang của ngày độc lập vẫn còn vang vọng mãi ghi lại dấu ấn khoảnh khắc lịch sử. Đó là hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng - Quốc kỳ của Tổ quốc trong nắng thu vàng như là một biểu tượng linh hồn của đất nước. Và hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu với bộ ka ki, đôi dép lốp quen thuộc trên lễ đài, với giọng trầm ấm khi đọc bản Tuyên ngôn, Người đã dừng lại hỏi: “Tôi nói, đồng bào nghe rõ không?”.
Chỉ một câu hỏi thân tình mà ấm áp biết bao. Hai tiếng “đồng bào” như khẳng định một biểu tượng của sự đoàn kết sắt son dòng dõi “Con Lạc, cháu Hồng” từ bọc trứng mẹ Âu Cơ trường tồn mãi mãi. Lá cờ màu đỏ với năm cánh sao vàng tươi là niềm khát khao tự do độc lập mà trong những ngày bị bọn Tưởng Giới Thạch giam cầm, Bác Hồ đã mơ ước cháy bỏng trong những vần thơ của tập “Nhật ký trong tù”: “Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh”.
Quảng trường Ba Đình luôn thu hút nhiều người mỗi khi đến thủ đô Hà Nội. ẢNH: HOÀNG HÀ |
Lá cờ ấy đã tung bay trong cuộc Khởi nghĩa Nam Kỳ (1941) thấm máu bao Anh hùng liệt sĩ. Hình ảnh lá quốc kỳ cũng chính là nguồn cảm hứng lớn lao để nhà thơ Xuân Diệu - một thi sĩ vừa mới “thoát thai” từ phong trào Thơ mới trước niềm vui vô tận được làm người tự do, ông đã viết tráng ca “Ngọn Quốc kỳ” với những dòng thơ hào sảng: “Cờ Việt Nam oanh liệt gió mừng bay/ Vàng huy hoàng sinh giữa thắm hây hây/ Thắm lộng lẫy nở quanh vàng rực rỡ...”. Hình ảnh Bác Hồ kính yêu trong ngày 2.9.1945 được nhà thơ Tố Hữu khắc họa rõ nét và thành kính trong trường ca “Theo chân Bác”: “Người đứng trên cao lặng phút giây/ Trông đàn con đó vẫy hai tay/ Cao cao vầng trán ngời đôi mắt/ Độc lập bây giờ mới thấy đây...”.
Lịch sử đất nước ta là lịch sử của 4.000 năm dựng nước và giữ nước. Chúng ta vẫn còn nghe vang vọng lời dặn dò của Bác Hồ với đại đoàn quân Tiên Phong ở đền Hùng (Phú Thọ) trước khi về giải phóng thủ đô: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.
Trong lịch sử đấu tranh anh dũng bền gan, dân tộc ta đã có ba bản Tuyên ngôn Độc lập. Đó là bài: “Nam Quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt khẳng định cương vực nước non và bản lĩnh đấu tranh của người dân Việt ngàn đời. Chúng ta vẫn còn nghe âm vang giọng thơ sang sảng trên phòng tuyến sông Như Nguyệt chặn đánh quân Tống, động viên sức mạnh tinh thần của binh sĩ: “Sông núi nước Nam vua Nam ở/ Rành rành định phận ở sách trời/ Cớ sao quân giặc sang xâm phạm/ Nhất định chúng bay sẽ bị đánh tơi bời”.
Bản tuyên ngôn thứ hai là bài “Cáo Bình Ngô” của Nguyễn Trãi tuyên bố giành chiến thắng trong cuộc chiến với quân Minh và khẳng định sự độc lập của nước Đại Việt. Nhưng phải đến bản Tuyên ngôn Độc lập ngày 2.9.1945 mới có thêm giá trị lịch sử và ý nghĩa thời đại. Bản tuyên ngôn khẳng định những giá trị dân tộc, dân chủ và quyền con người. Với cả nhân loại, bản Tuyên ngôn Độc lập của dân tộc Việt Nam là tiếng chuông báo sự khởi đầu tan rã hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa thực dân kiểu cũ. Cuộc cách mạng của nhân dân Việt Nam thắng lợi cũng tạo niềm tin và hy vọng, động viên tiếp sức cho các dân tộc còn bị áp bức vùng lên đấu tranh giành độc lập cho mình. Với nhân dân Việt Nam, bản Tuyên ngôn Độc lập ngày 2.9.1945 đánh dấu kỷ nguyên mới của dân tộc: Kỷ nguyên độc lập, chấm dứt nô lệ thực dân, chấm dứt chế độ phong kiến. Lần đầu tiên ở Việt Nam lập nên nhà nước dân chủ cộng hòa.
Nhớ lại ngày thu lịch sử cách đây 75 năm, dưới sắc nắng thu vàng muôn dòng người như những dòng sông kết nối cờ đỏ sao vàng tuôn chảy về Quảng trường Ba Đình hội tụ, tôi lại hình dung, liên tưởng đến hình ảnh những dòng sông đã làm nên dáng hình Tổ quốc và hình ảnh đất nước tượng hình qua những khúc dân ca. Một dáng hình Tổ quốc mềm mại mà quyết liệt như nhà thơ Huy Cận đã từng viết: “Sống vững chãi bốn ngàn năm năm sừng sững/ Lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa/ Trong và thật sống hai bờ suy tưởng/ Sống hiên ngang mà nhân ái chan hòa”.
Tên của những dòng sông cũng mang dấu ấn, tâm trạng, khí phách của con người Việt. Đó là một dòng sông Thương với những khúc ca quan họ. Một sông Hồng “đỏ nặng phù sa” như thanh gươm cài bên hông thủ đô Hà Nội. Một sông Mã tung bờm vó ngựa đã cho ta điệu hò sông Mã khỏe khoắn. Một sông La mang tên nốt nhạc với bao điệu ví “giận thương”. Một sông Hương: “Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu” (Thu Bồn). Và chín nhánh Cửa Long quặn sóng bồi đắp châu thổ màu mỡ với miệt vườn đồng bằng Nam Bộ để sinh ra câu vọng cổ tha thiết đến nao lòng.
Một dáng hình đất nước mà có nhà thơ đã ví: “Đất nước tôi giống như nàng tiên múa/ Lại hóa thành ngọn lửa lúc cuồng phong”. Đất nước ấy, dân tộc ấy dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam mà đứng đầu là Bác Hồ kính yêu đã nhất loạt đứng lên như tất cả các dòng sông cuộn chảy từ mạch nguồn truyền thống, trầm tích lịch sử quá khứ làm nên cuộc Cách mạng Tháng Tám thành công. Và cũng chỉ sau hơn 10 ngày cách mạng thành công, lần đầu tiên một đất nước thuộc địa từng bị áp bức đã long trọng khai sinh ra một tên mới, một chính thể chính trị mới, đó là nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đây là khát vọng ngàn đời của dân tộc, là mục tiêu đấu tranh của nhân dân, của hàng nghìn người con ưu tú đã ngã xuống. Và cũng từ đây: Nước Việt cất cánh bay lên từ thành phố rồng bay Thăng Long - Hà Nội, thành phố hòa bình, thành phố của “niềm tin và hy vọng”...
Mùa thu là mùa đẹp nhất trong năm, mùa thu Hà Nội là mùa đẹp nhất của đất nước. Còn đó bóng dáng tháp rùa in xuống hồ Gươm. Ôi cái tên hồ Gươm, rùa vàng ngậm gươm báu từ tay người anh hùng dân tộc Lê Lợi như là một biểu tượng anh dũng, bất khuất. Còn đây cột cờ Hà Nội trên đường Điện Biên Phủ lộng gió nắng thu - con đường mang tên một dịa danh chiến thắng lịch sử được cả nhân loại ngợi ca. Và phút giây thiêng liêng này chúng ta thành kính hướng về Lăng Bác như một đài hoa bất tử và thiêng liêng trong lòng dân tộc. Trước bãi cỏ rộng lớn của Quảng trường Ba Đình ta như còn nghe âm vang khúc “Tiến quân ca” của nhạc sĩ Văn Cao: "Đoàn quân Việt Nam đi chung lòng cứu quốc”. Cứu quốc để giành độc lập; cứu quốc để "ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành" như mong ước giản dị mà thiết thực biết bao của Bác Hồ kính yêu.
Thưa Bác, 75 năm đã đi qua, nhưng những dòng tuyên ngôn bất hủ vẫn còn vẹn nguyên đến hôm nay, vẹn nguyên tính thời đại. Và ngày Quốc khánh 2.9 trở thành ngày hội lớn của cả dân tộc. Đó là ngày xóm thôn, các làng quê tổ chức các lễ hội tưng bừng, trong đó có truyền thống bơi chãi trên các dòng sông đỏ rực cờ hoa. Những con thuyền gỗ với những cánh tay chèo dẻo dai mạnh mẽ hòa nhịp cộng hưởng trong tiếng trống náo nức, đã góp phần tạo ra những sức đẩy tinh thần đầy sinh khí cho con thuyền Tổ quốc vượt qua bao sóng gió cập bến bờ hạnh phúc cho cả dân tộc và cho mỗi con người bắt đầu từ: Âm vang Ngày Độc lập!
Tùy bút: NGUYỄN NGỌC PHÚ