(Báo Quảng Ngãi)- Quê tôi, vùng đất ngày xưa được gọi là “tiểu Đồng Nai”, thực ra là vùng đất nghèo. Ngày xưa, có ruộng cấy lúa nước, lại là ruộng nhất hay nhì đẳng điền, đã mặc nhiên được coi là “trù phú”. Trải bao nhiều biến động, quê tôi, người dân chỉ còn biết làm nông. Làm ruộng bây giờ thì ai cũng biết, chỉ đủ ăn là mừng lắm rồi. Quê tôi, xưa là nơi người Chăm cư ngụ. Nhiều món ăn truyền thống ở quê tôi, nhất là những món ăn trong ngày Tết, có “lý lịch” từ những món ăn truyền thống của người Chăm.
Don Quảng Ngãi có hương vị thanh đạm, dân dã. Ảnh: Internet |
Như các món gỏi, các món thịt hay cá để chua, các món ram được gói bằng bánh tráng, và các món có ăn kèm với “nước lèo”. Một vùng đất nghèo nhưng phong phú sản vật, là cơ sở để cho “ra lò” nhiều món ăn mà với người địa phương thì hợp khẩu vị, còn với du khách thì lạ miệng khiến ai cũng cảm thấy hài lòng và đều có thể tìm trong đó những lý do cho sự ưa thích riêng mình. Như món don, đây không phải món trong cỗ bàn, nhưng với người quê tôi, lại là món ăn tuyệt vời để hóa giải những ngán ngẩm của thức ăn nhiều thịt mỡ. Người quê tôi rất thích ăn don, vào bất cứ lúc nào. Ngày xưa thì từ các gánh don lưu động do các cô hàng don gánh bán, thế mới có câu “Nghèo nghèo nợ nợ cũng cố kiếm cho được con vợ bán don/ Mai sau nó chết cũng còn cặp ui”.
Ấy người quê tôi hay hài hước như thế, nhưng tịnh không một chút ác ý, chẳng qua là để tôn vinh món don truyền thống. “Cặp ui” theo nghĩa đen là một đôi vò bằng đất nung dùng để đựng nước don nóng. Còn theo nghĩa bóng của câu ca dao này thì... Xin mách nhỏ với bạn, món don tuy rẻ tiền nhưng lại là một món ăn bổ dưỡng. Một lần có dịp về Quảng Ngãi, nhạc sĩ nổi tiếng Nguyễn Thiên Đạo đã ăn một lúc 3 tô don, vừa ăn vừa hít hà vì ớt cay. Con don cư ngụ dưới đáy sông Trà, nhỏ nhưng đặc biệt ở chất ngọt đậm đà sau khi được đãi vỏ và nấu lên. Nước don ăn với bánh tráng bẻ vụn, cũng là món bánh của người Chăm cổ mà sau này Hoàng đế Quang Trung đã cho làm lương khô để đoàn quân Bắc tiến của mình no lòng khi hành quân xuyên rừng vượt truông tiến ra Bắc đại phá quân Thanh.
Quê tôi cũng còn khối món là lạ khác. Như bánh nổ. Tôi bảo đảm, ngoài Bắc không có món bánh này. Trong Nam Bộ cũng không có. Chỉ quê tôi là có. Bánh nổ làm từ nếp rang, nhưng không phải bánh cốm Bắc, cũng chẳng phải bánh phồng bánh dẹp Nam Bộ. Hay như món bánh mè. Ngoài Bắc có kẹo vừng. Bánh mè làm từ mè (vừng), nó là sự kết hợp giòn giã giữa bột nếp chiên dòn và mè thơm thảo. Cứ như cả cánh đồng nếp đang mùa gặt ùa hương thơm vào ta khi thưởng thức món bánh mè này.
Ngày xưa, nghe hát tuồng, coi hát múa bả trạo đầu năm mà trong túi có mấy cái bánh mè, vừa thưởng thức nghệ thuật vừa nhai lai rai thì... đã lắm! Người quê tôi ít khi được chơi. Quanh năm làm lụng vất vả, đầu tắt mặt tối, nên cái chơi cũng không rườm rà. Ngày xưa, họ tập trung ra đình làng coi hát bội. Có những nghệ sĩ hát bội, nghệ sĩ tuồng được người quê tôi nhớ tới từng động tác vũ đạo, từng câu hát, từng cú ra roi quất ngựa (vũ đạo tuồng) sau khi họ mất đã nhiều năm. Vinh quang của người nghệ sĩ hồi xưa, khi chưa có truyền thông đại chúng, tưởng như hạn hẹp mà hóa lại sâu sắc.
Ẩm thực quê tôi giản dị nhưng với người Quảng Ngãi, thì thật khó quên. Nhiều người Quảng Ngãi xa quê đã mấy chục năm nhưng không bao giờ họ quên những món ăn bình dân của quê mình.
Bây giờ Mộ Đức quê tôi đang phát triển mạnh những món ăn được xếp vào OCOP. Hóa ra, đều là những món quà vặt mà người nông dân quê tôi vẫn làm mỗi khi Tết đến, xuân về. Như người ta hay đùa, Mộ Đức thì vẫn “mức độ”, kể cũng khó có đột phá, nhưng nếu OCOP thuộc tốp đầu Quảng Ngãi thì đâu có tệ. Ẩm thực làm nên tính cách một cộng đồng, một vùng đất, và sự khác biệt đã tạo nên những độc đáo.
THANH THẢO
TIN, BÀI LIÊN QUAN: