(QNĐT)- Nhà thơ Thanh Thảo có câu thơ ngồ ngộ: “Là con don tôi ở sông Trà”. Chỉ có sông Trà mới có loài thủy sản đặc biệt này. Nhưng đó là loài vật có hình thù ra sao để nhà thơ phải ví mình như nó? Và sự mê hoặc của dòng sông Trà như thế nào để con don xem đó như lãnh địa duy nhất của mình? Đi tìm câu trả lời về con don không quá khó vì những ai ở Quảng Ngãi là “ra ngõ gặp don” ngay, nhưng lại không hề dễ vì coi chừng nhầm hến với don.
“Độc quyền” của sông Trà
Trên hành trình 130 km, bắt nguồn từ dãy Ngọc Linh thuộc tỉnh Kon Tum, đến phía cuối nguồn thuộc địa phận huyện Sơn Tịnh, sông Trà như một vận động viên băng băng về đích. Trước khi nhập vào biển Đông, dòng sông hào hển thở và không quên để lại hai bờ của nó điệp trùng những cánh đồng màu mỡ phù sa.
Dụng cụ cào don. |
Ngoài việc bồi đắp thường niên một lượng phù sa rất lớn, dòng sông Trà còn dâng tặng cho cư dân ven sông những sản vật không nơi nào có. Đó là những chú cá bống chỉ to bằng đầu đũa, có một hương vị rất riêng; đó là những nàng thài bai, lớn hơn đầu tăm một tẹo, lại mang một hương vị không trộn lẫn với bất cứ loài thủy sản nào.
Nhưng có lẽ đặc biệt hơn cả là con don, loài hải sản “độc quyền” của sông Trà mà không một dòng sông nào ở miền Trung có được.
Khi những trận lũ cuối cùng ở miền Trung vừa dứt thì cũng là lúc mùa xuân bắt đầu gõ cửa từng nhà. Đó cũng là thời điểm “hồi hương” của một số loài thủy sản ở sông Trà sau một mùa cuồng lưu phải đi lánh nạn nơi bờ tre gốc rạ để tránh tai ương bị cuốn phăng ra biển. Dòng sông chợt hiền lành như chưa từng biết mình đã từng gây bao thảm cảnh suốt một mùa lũ dữ.
Cùng với những bãi cát vàng ươm mà dòng sông kịp để lại hai bờ, phấn hương của các loài thảo mộc nơi thượng nguồn cũng đã kịp lắng lại nơi cuối dòng sông. Đó là nguồn thức ăn vô tận của loài don.
Chúng vùi mình sâu trong cát để làm phận sự duy trì nòi giống đồng thời tận hưởng những “sản vật” mà dòng sông để lại nơi cuối nguồn trước khi sông nhập vào bao la biển cả. Chính nguồn thức ăn đặc biệt từ phấn hương của các loài thảo mộc nơi nơi Trường Sơn đã làm nên hương vị của con don.
Don cào, hến xúc
Tỉnh Quảng Ngãi có ba con sông lớn là sông Trà Bồng, Trà Khúc và sông Vệ nhưng làm nghề cào don thì chỉ có ở những cư dân sống ven sông Trà. Vì chỉ sông Trà mới có con don, còn hến thì sông nào cũng có. Hến sống hoàn toàn vùng nước ngọt còn don thì sống nơi nước lợ ở ngay cửa sông.
Luộc don. |
Nhìn động tác của những người bắt chúng đủ để phân biệt đâu là don còn đâu là hến: “Don thì cào, còn hến chỉ xúc”. Ông Nguyễn Tiến Trung, quê Phú Thọ xã Nghĩa Phú huyện Tư Nghĩa, một chuyên gia của nghề “cào don” giải thích: “Con hến sống vùng nước ngọt, chúng nằm hẳn trên mặt cát dưới nước nên chỉ cần một cái rỗ chuyên dụng là cứ thế mà xúc, còn con don sống vùng nước lợ, lại vùi sâu dưới lớp cát nên phải dùng nhủi để cào thì mới bắt được”.
Ông lưu ý: “Nếu đứng trên cầu Trà Khúc mà nhìn thấy người dưới sông đang cầm trên tay một vật dụng nào đó ở tư thế xúc về phía trước thì đích thì là xúc hến rồi. Phải xuôi sông Trà thêm dăm cây số nữa, tới vùng nước lợ thì mới gặp cảnh cào don”.
Còn anh Hai Chì, quê xã Nghĩa Hà thì cặn kẽ hơn: “Phải đan một cái nhủi chuyên dụng, làm sao đó khi “nhủi” thì cát rớt lại xuống sông còn don thì nằm trên nhủi. Có một cái đụt (giỏ) đặt trên chiếc phao, cột vô thắt lưng, hễ mình nhủi đến đâu thì chiếc đụt “theo” đến đó. Khi thấy hòm hòm đầy đụt thì dừng tay mang lên bờ, trút don vô bao tời. Ba giờ sáng là phải “xuống sông” rồi, đến 10 giờ trưa mới xong việc. Mỗi ngày cào được chừng 100 lon don, giá bữa nay khoảng 200 ngàn”.
Nghe anh Hai nói vậy, tôi nhẩm phép nhân của một người “cào chữ” chứ không phải cào don: “Mỗi tháng anh kiếm đến 6 triệu lận à?”. Hai Chì cười rung rốn: “Thôi đi chú em! Chỉ cào được những ngày nắng ấm thôi. Còn những ngày mưa phùn và lạnh giá như bữa nay, chỉ cần ngâm mình dưới nước một tiếng đồng hồ là tất cả mọi thứ trong người mình nó cũng thun lại như con don vậy”.
Hít hà… hết
Đó là những âm thanh phát ra với những ai lần đầu thưởng thức món don. Sau khi bắt về, đem ngâm cho don nhả hết bùn ra rồi mới cho vào nồi luộc chín, sau đó đãi ra lấy ruột (thịt don). Ruột don chỉ to bằng cái móng tay út của trẻ con nên để có một tô don, có khi phải mất hàng trăm con như thế! Nước luộc don một lần nữa lại đem nấu với số ruột vừa đãi.
Bán don dạo. |
Sở dĩ người ăn phải “hít hà” là do tô don vừa nóng lại phải vừa ăn với một loại ớt đặc biệt, dân miền Trung gọi là ớt tép, hoặc ớt chỉ thiên, lớn hơn đầu tăm một chút. Ớt này không quá cay, lại rất thơm, ăn với don là… số dzách!
Ngoài chất “phụ gia” là ớt tép, tô don còn được rắc lên một ít hành lá và bánh tráng, một loại lương khô khá phổ biến ở Quảng Ngãi. Những ai không phải là dân Quảng Ngãi, khi lần đầu ăn don thường ngộ nhận điều này: ăn hết tô don mà cứ ngỡ đó chỉ là “khúc dạo đầu”, vì thịt don rất ít, nước trong tô lại lễnh loãng, ngồi đợi bà chủ quán bưng món don “chính thức” ra. Chủ quán cũng ra nhưng không phải bưng món don chính thức như suy nghĩ của khách mà là ra để … tính tiền.
Bấy giờ, vị cay của ớt, mùi thơm của don, chất đậm đà của hành và bánh tráng mới bắt đầu ngấm. Khách vừa tính tiền, vừa vỡ ra rằng mình vừa ăn xong một loại đặc sản. Cái lạ của don là khi anh cảm nhận được vị ngon của nó thì cũng là lúc phải … đứng dậy tính tiền!