Đại dịch COVID-19 đã giáng một đòn nặng nề vào thị trường lao động Nhật Bản. Số người thất nghiệp trong vòng ít nhất một năm đã tăng lên mức cao nhất, kể từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008.
Người dân Tokyo, Nhật Bản, đi làm vào buổi sáng - Ảnh: NIKKEI ASIA |
Thị trường việc làm bị đánh giá có phần cứng nhắc của Nhật Bản lại khiến người dân khó tìm được chỗ làm mới sau khi nghỉ việc. Tỉ lệ thất nghiệp tại đây vì thế tăng cao, buộc người dân thắt chặt chi tiêu, đẩy tiêu dùng đi xuống.
Theo Nikkei Asia, số người không có việc làm trong hơn một năm của Nhật đã tăng vọt lên 720.000 trong quý 2-2021, cao hơn khoảng 50% so với cùng kỳ năm 2019.
Một quan chức Bộ Nội vụ và truyền thông Nhật Bản đánh giá suy thoái kinh tế vào năm 2020 là nguyên nhân khiến tỉ lệ thất nghiệp dài hạn gia tăng một năm sau đó.
Ngoài ra, bộ này cũng ghi nhận số người sắp mất việc làm có xu hướng tăng lên.
Các khoản trợ cấp giúp duy trì việc làm của chính phủ cho người sử dụng lao động đã giúp tỉ lệ thất nghiệp giảm 2,6 điểm phần trăm.
Dù giúp giới hạn tỉ lệ thất nghiệp, những khoản trợ cấp này lại đẩy số nhân viên tạm giữ được việc làm tăng lên, tức những người vẫn giữ được công việc nhưng phải tạm nghỉ và không được trả lương.
Cụ thể, số người tạm giữ được việc làm là 2,11 triệu người vào năm 2021, tăng 330.000 người so với năm 2019.
Số người muốn thay đổi công việc đạt 8,46 triệu người vào năm 2021, tăng 460.000 người so với hai năm trước đó.
Ngược lại, số người thực sự có công việc mới chỉ đạt 2,88 triệu người, giảm 630.000 người. Điều này cho thấy các công ty đang giữ lại những nhân công không có việc để làm, dẫn đến thị trường lao động càng ảm đạm hơn.
Tại Nhật, những người mất việc gặp rất nhiều khó khăn khi tìm cơ hội mới. Trong số những người thất nghiệp dài hạn vào năm 2021, so với năm 2019, số người rời bỏ công việc cũ vì lý do cá nhân tăng 20%, còn số người bỏ việc vì vấn đề trong công ty tăng 80%.
Theo
NGUYÊN HẠNH/Tuoitre.vn