(Baoquangngai.vn)- Nhiều người phải xa quê, ly hương rất lâu rồi mới thành đạt, còn tôi thì lang thang chán lại về quê, chẳng biết có thành cái gì không. Năm xa quê, tôi tròn 8 tuổi. Ngày về lại quê nhà, tuổi đã 29.
Tháng 6 năm 1975, từ Sài Gòn tôi được theo đoàn nhà văn miền Trung do nhà văn Nguyễn Chí Trung dẫn đầu, đi nhiều tỉnh miền Trung, từ Đà Lạt xuống Bình Thuận, Ninh Thuận, Khánh Hòa, Phú Yên, Bình Định, rồi… về tới Quảng Ngãi quê tôi.
Khi xe chúng tôi (gồm Thu Bồn, Ý Nhi, Ngô Thế Oanh và tôi) về tới gần quê tôi Đức Tân-Mộ Đức, Quốc lộ 1 trải nhựa loang loáng ướt dưới nắng trưa. Tôi nói với anh Thu Bồn và chị Ý Nhi cứ về Đà Nẵng trước, tôi và Oanh sẽ về thăm nhà tôi quê tôi vài ngày. Đã 21 năm rồi còn gì! Tôi rất cố gắng để huy động trí nhớ, chỉ sợ xe chạy vuột qua mất làng mình. May mà cây cầu Giắt Giây đang còn, dấu mốc tôi vẫn nhớ từ hồi nhỏ. Khi qua cầu, xe chạy thêm một đoạn nữa, tôi mới chịu dừng lại hỏi thăm. Gần như đúng chỗ con đường làng rẽ xuống nhà tôi.
Thay mặt gia đình, đứa con lưu lạc sau 21 năm lại được về với “mái nhà xưa” sớm nhất, trước cả cha mẹ mình. Nhà tôi đây ư? Một mái nhà lợp tôn xa lạ và khá lụp xụp, lại đang có người ở. “Gia chủ tạm” tỏ ra sợ hãi khi thấy “gia chủ thật” về nhà. Nhưng tôi rất vui vẻ, trấn an họ, nói họ cứ ở, khi nào thầy má tôi về họ giao lại đất vườn cũng được (vì ngôi nhà đang tọa lạc ở đây không phải ngôi nhà cũ của gia đình tôi, mà do “gia chủ tạm” cất lên, cũng rất tạm bợ, để ở). Tôi không hỏi nhân thân, nhưng thấy họ cũng nghèo.
Thôi cứ để họ ở thêm ít lâu. Tôi đi thăm bà con. Có gia đình vợ con ông anh con cô ruột ở bên kia sông. Cô ruột tôi đã mất trước giải phóng. Ông anh tập kết chưa về. Lại có gia đình với hai chị em con ông bác gần nhà tôi. Hai bà chị đều ở vậy qua 21 năm.
Đêm đầu tiên được ngủ ở quê, nhưng không phải ở nhà mình. Tuy vậy tôi vẫn rất ngon giấc. Tôi chưa tới tuổi phải trằn trọc vì về quê mà không được ngủ ở nhà mình. Quê tôi rất ít thay đổi. Sau này cũng thế. Điều đó khiến tôi vừa buồn vừa mừng. Buồn vì như vậy quê mình vẫn nghèo. Mừng vì nếu “giàu loạng choạng” như nhiều nơi khác thì còn khốn khổ hơn. Con đường làng dẫn xuống nhà tôi sau 21 năm hình như không thay đổi, lầm lội khi mưa và loi thoi khi nắng.
Sau này tôi viết được bài thơ về quê mình, không khí trong bài thơ phản ánh không khí của làng tôi cách đây khoảng 40 năm :
Ở QUÊ NHÀ
Những cây cau đã trổ hoa
yêu thương xa lạ
nơi không khí biến ta thành lặng lẽ
dẫu muốn ồn ào biết ồn ào với ai
con đường mấy mươi năm mòn dần dưới chân người chân trâu
chân mưa
đường lầy thụt dẫn về yên tĩnh
ta đã có những con chuồn chuồn con cá con cua
ta đã có nỗi cô đơn ngọt ngào trẻ nhỏ
gần như một bức tường vô hình dựng lên
bao bọc tuổi thơ quê nhà mấy mươi năm xa cách
thỉnh thoảng ta về nhìn ngắm lại
phần đời đầu tiên con đường loang những vết bùn
nơi mùi hoa cau thơm đậm hơn
lúa xanh hơn dòng sông hiền hơn tất cả
hoàng hôn xuống như một người gánh rạ
gánh sắc vàng đang sẫm dần
Sáng hôm sau, đứa con ông anh đưa tôi và Ngô Thế Oanh lên Đức Hiệp quê má tôi để thắp hương cho ông cậu ruột-người cậu đã lấy thân mình che đạn cho thầy tôi trong vụ ám sát nổi tiếng hồi mới hòa bình, lúc Quảng Ngãi đang chuyển giao chính quyền. Thầy tôi sống nhưng cậu tôi chết. Bấy giờ má con tôi đang ở miền Bắc, và tôi sắp đi học bên Trung Quốc. Tôi nghe tin này qua Đài tiếng nói Việt Nam. Hà Nội lên án vụ ám sát đê hèn. Kẻ ám sát, về sau tôi mới nghe kể, hình như là người cùng làng cậu tôi.
Qua thời gian, thấy không yên nếu ở quê, hắn đã trốn vào Sài Gòn, mai danh ẩn tích. Nhưng du kích Đức Hiệp thề phải xử hắn để trả thù cho cậu tôi, một người vốn rất tốt với dân làng, sống hào hiệp và ngay thẳng. Cuối cùng, du kích Đức Hiệp đã làm được điều đó. Sau vụ bị ám sát hụt, thầy tôi được Trung ương điều ra Bắc, do trước đó cấp trên chỉ định thầy tôi ở lại hoạt động bí mật. Thầy tôi tập kết theo chuyến tàu Ba Lan cuối cùng. Ông ra Bắc lúc tôi đang học bên Khu học xá Nam Ninh-Trung Quốc.
Thắp hương cho cậu, tôi và Oanh lại đi bộ lên xã Hành Thịnh thăm bà dì ruột-là chị của má tôi. Nhà dì tôi rất nghèo, hai người con hy sinh trong chiến tranh, một người là thương binh nặng đang điều trị ở miền Bắc. Làng quê vừa qua chiến tranh, trông rất xác xơ. Tôi đã quen với những làng kháng chiến như thế ở Nam Bộ, nhưng lần đầu mới gặp một làng quê như thế ở quê dì mình, mẹ mình. Làng quê dì tôi bây giờ đã khang trang nhiều. Nhưng hồi đó, nhìn rất thương.
21 năm mới về lại quê, sau khi đã lang thang qua Trường Sơn, qua đồng bằng sông Cửu Long, qua chiến tranh, tôi có cảm giác mình đã trưởng thành. Dù vẫn khá hồn nhiên, hơi ngơ ngác. Bà con tôi ở quê hẳn nhiên là vui khi thấy tôi về. Lúc rời quê tập kết, tôi là một đứa bé con gầy nhẳng, học lớp 1 ở trường làng. Khi về, đã là “anh giải phóng quân” tốt nghiệp đại học, cao 1m7, có thâm niên 5 năm ở chiến trường. Nhưng thú thật, tôi chả cảm thấy chút gì “tự hào” kiểu như vậy. Tôi vẫn thế, như hồi còn nhỏ, chỉ khác là đã… làm thơ. Đúng, hồi nhỏ mình đâu có biết làm thơ là gì. Mình đâu phải “thần đồng thơ”. Mình chỉ là đứa trẻ nhà quê, thích nghịch chơi với những con chuồn chuồn con cá con cua…
Hai bà chị làm thịt vịt đãi tôi và Ngô Thế Oanh, “thịt vịt ăn mát, tránh phong”. Thế là liên hoan mừng sum họp. Hai hôm sau, tôi với Oanh ra thị xã Quảng Ngãi, trước lúc về Đà Nẵng. Ở Quảng Ngãi, tôi gặp Vũ Doanh Dzụ-nhà nhiếp ảnh-bạn của Oanh hồi ở chiến khu. Dzụ rất tươi vui hồn nhiên, đang ở một cái nhà loàng xoàng hình như thuộc diện “nhà vắng chủ”. Lại gặp BS Phan Tư A, một tay còn hồn nhiên hơn cả Vũ Doanh Dzụ, đang tiếp quản bệnh viện Quảng Ngãi. Phan Tư A vốn là bạn của Ngô Thế Oanh và Bùi Minh Quốc từ khi còn ở chiến khu, A mời tôi và Oanh ăn cơm gia đình, rất thân tình. Trong bữa ăn, A nhắc nhiều tới Bùi Minh Quốc và những anh em văn nghệ khu Năm. Có vẻ Phan Tư A gần với văn nghệ hơn là với ngành y.
Thị xã Quảng Ngãi ngày đó khá nhỏ bé và tuềnh toàng. Tôi đã ở Sài Gòn hơn 1 tháng, lại qua nhiều thành phố lớn dọc miền Trung, nên thấy thị xã mình nó hắt hiu thế nào. Tôi và Oanh đi bộ một lúc thì hết thị xã. Gặp bạn thì chỉ chơi tại nhà thôi. Không như bây giờ, cứ gặp nhau là kéo ra quán.
Đúng là không bao giờ mình biết trước số phận mình. Năm 1954, lần đầu tôi từ quê ra thị xã Quảng Ngãi, dù làng tôi chỉ cách thị xã 16 km. Lần đầu tôi được nhìn thấy…đèn điện sáng. Tôi ra thị xã xem Hội mừng Hòa bình thắng lợi của tỉnh Quảng Ngãi. Tổ chức ngay sân vận động Diên Hồng. Tôi cũng không ngờ, 35 năm sau, vào năm chia tách tỉnh Nghĩa Bình, tôi lại được về ở sát sân vận động này. Cứ như một tình cờ. Và ở đó tới 31 năm rồi. Đây chính là nơi, có lẽ, tôi đã và sẽ ở lâu nhất trong cuộc đời mình.
Tôi vẫn nói mình là “dân ca ba miền” do sinh từ miền Trung, lớn lên và học hành ở miền Bắc, vào chiến trường Nam Bộ. Nhưng cuối cùng, chính miền Trung, sau nữa, chính quê hương Quảng Ngãi, mới là nơi tôi được ở lâu nhất. Chẳng biết thế là may hay rủi, vì nhiều người phải xa quê, ly hương mới thành đạt, còn mình thì lang thang chán rồi lại về quê, cũng không biết thành cái gì. Nhưng biết làm sao!
Có một nhà hàng (Ba Tàu) ở Anh chuyên kinh doanh món “bún mắng, cháo chửi”, rất đông khách, đã tuyên bố sẽ “nâng cấp” nhà hàng theo hướng lịch sự hơn. Lập tức, họ bị khách hàng quen của họ phản đối quyết liệt: “Tôi sẽ rất thất vọng nếu được phục vụ tốt” (theo báo điện tử “Một thế giới”). Chẳng lẽ tôi cũng thế, tôi cũng rất thất vọng, nếu được đối xử thân tình, được bao dung và thấu hiểu ư ? Chắc chắn không phải vậy rồi.
Khi về quê lần thứ hai năm 1989, gặp lại những bạn bè cũ từng quen ngày mới hòa bình như Phan Tư A, như Vũ Doanh Dzụ đã rất vui rồi. Không ngờ, còn được quen thân với nhiều bạn bè, em út khác nữa như bạn Mười Diêu, anh Sáu Tân, em Thái Anh, anh Trần Anh Kiệt và những người bạn người em rất thân tình khác nữa, tôi chợt cảm giác, có thể mình sẽ làm được cái gì ở ngay quê mình ? Đúng là sau 31 năm ở gần sân vận động Diên Hồng, tôi đã sáng tác được nhiều thơ, trường ca, đã cộng tác với dăm chục tờ báo, trong đó có báo Quảng Ngãi của quê tôi, đã vui cùng bạn bè không biết bao nhiêu cuộc, và đã… già đi, đúng như qui luật cuộc sống.
Nhưng làng quê tôi thì gần như vẫn vậy. Có thay đổi nhưng không nhiều, dù cuộc sống và mức sống của bà con quê tôi đã khá hơn trước rất xa. Và đó là điều khiến tôi mừng nhất./.
Thanh Thảo