Lý Sơn- Những con tàu ngày đêm bám biển

03:06, 06/06/2010
.

(QNĐT) - Cách đất liền trên 30km, đảo Lý Sơn như một con tàu khổng lồ nhấp nhô trên mặt nước. Với diện tích gần 10km 2 , gồm có 3 xã đảo An Hải, An Vĩnh và An Bình, đây là nơi cư trú, làm ăn, sinh sống của hơn 21.000 dân. Trải qua bao biến thiên của của lịch sử, nối tiếp truyền thống cha ông, những cư dân Lý Sơn từ những ghe thuyền thô sơ đến tàu công suất lớn vẫn vững vàng bám đảo, bám biển để tồn tại, vươn lên và phát triển mạnh mẽ. 

“Mở” biển…!

Truyền thuyết dân tộc Kor kể rằng, đảo Lý Sơn là một phần của vùng núi Trà Bồng trôi dạt về phía Biển Ðông sau trận giao tranh dữ dội của Thần Nước và người anh hùng Doang ác Tố, chủ làng Tali Talok.

Còn theo các nhà địa chất, Lý Sơn được hình thành cách đây vài triệu năm do vận động phun trào nham thạch của 5 ngọn núi lửa.
 
Một góc đảo Lý Sơn nhìn từ trên xuống
Một góc đảo Lý Sơn nhìn từ trên cao.

Giữa bao la đại dương, Lý Sơn thường xuyên đối mặt với nhiều mối hiểm nguy rình rập, nhất là thiên tai. Mảnh đất nào thì sinh ra và hun đúc nên những con người ấy. Chính cái khắc nghiệt của bão tố phong ba, cái trọng yếu về vị trí địa lý nên nơi đây đã hình thành nên đội hùng binh Hoàng Sa chinh phục biển khơi, mở cõi và cắm mốc chủ quyền của Việt Nam tại khu vực quần đảo Hoàng Sa.

“Cha ông đã mở cõi, thế hệ tiếp nối phải tiếp bước giữ gìn để khẳng định chủ quyền thiêng liêng của đất nước. Những đội tàu lớn nhỏ vẫn ngày đêm bám biển Hoàng Sa – Trường Sa đánh bắt thủy hải sản, cũng là khẳng định vùng biển, chủ quyền của Việt Nam”- Lão ngư Dương Chính ở thôn Đông, xã An Hải, người có hơn 30 năm đi biển, trong đó có trên 20 năm vẫy vùng ngang dọc khắp ngư trường Hoàng Sa chia sẻ.

“Những năm đất nước mới thống nhất, tàu thuyền của người dân trên đảo chủ yếu là tàu công suất nhỏ, phương tiện thô sơ, ngư dân chỉ đánh bắt ven bờ nên nguồn hải sản dần cạn kiệt, cuộc sống khốn khó. Sau đêm thao thức, tui quyết tâm “mở” biển, đưa tàu cá về phía Hoàng Sa”-ông Chính nhớ lại.
 
Ngư dân Lý Sơn chuẩn bị ngư lưới cụ
Ngư dân Lý Sơn chuẩn bị ngư lưới cụ trước khi ra khơi.

Năm 1984, với 3 tàu cá, công suất chỉ 33CV, người thủ lĩnh ấy lần tìm trên hải đồ, chấm từng tọa độ, đo tỉ lệ xích để ngày 9/6/1987, các tàu mang số hiệu QNg- 071 TS, QNg- 072 TS và QNg- 073 TS với 40 ngư dân, trong đó tàu QNg- 071 TS do thuyền trưởng Chính trực tiếp cầm lái “đạp luồng sóng giữ” nhằm hướng Hoàng Sa trực chỉ. Hơn 10 ngày sau, 3 chiếc tàu lừng lững quay về, trên khoang đầy ắp sản vật trong sự ngưỡng mộ và hân hoan của những cư dân trên đảo.

“Từ 3 chiếc tàu đầu tiên ấy, Lý Sơn bây giờ đã có đội tàu hùng mạnh với hơn 400 chiếc, trong đó có trên 100 chiếc công suất lớn từ 100 CV trở lên được trang bị các thiết bị liên lạc, đánh bắt hiện đại, hằng năm đóng góp cho nguồn thu của huyện gần 200 tỷ đồng, đứng đầu trong các lĩnh vực kinh tế của Lý Sơn. Những hộ gia đình trên đảo cũng nhờ vậy mà thoát nghèo, vươn lên làm giàu nên mức sống trên đảo hiện khá cao, bình quân trên 1 triệu đồng/người/tháng”- Chủ tịch UBND huyện đảo Lý Sơn Võ Xuân Huyện tự hào khoe.

… Và khát vọng bám biển!

Người chứng kiến những thay da đổi thịt rõ rệt nhất của Lý Sơn là ông chủ tịch huyện Võ Xuân Huyện. Sinh ra ở Lý Sơn, gần 50 năm thức ngủ cùng quê hương, đã gần qua hai nhiệm kỳ làm chủ tịch nên ông cảm nhận một Lý Sơn vững chãi giữa biển khơi, đang vươn mình lên mạnh mẽ.

“30 năm trước, chưa có thuyền chạy bằng động cơ, muốn từ đảo vào đất liền, phương tiện duy nhất là chiếc ghe chèo nửa ngày mới tới. Ghe thì thủng, nước biển cứ sùi bên trong. Người chèo, người tát nước. Không biết đã bao lần đi gặp gió lớn, ghe xoay tròn cứ chực lật úp, số phận người ngồi trên ghe thật mỏng manh”-nhớ lại những khoảnh khắc không quên đó, ông thoáng rùng mình.

Nhưng rồi nét mặt ông lại giãn ra khi khoe: “Bây giờ thì chỉ cần ngồi trên tàu cao tốc 1 giờ là bước chân lên đất liền hoặc từ đất liền ra đảo”. Ba chiếc tàu cao tốc trị giá gần 50 tỷ đồng của tỉnh Quảng Ngãi và tư nhân đầu tư vẫn đều đặn xuất bến lúc 8 giờ sáng hằng ngày để vận chuyển hành khách, lương thực, thực phẩm vào-ra Lý Sơn hơn 3 năm nay như minh chứng đầu tiên cho những thay da đổi thịt của hòn đảo này. Trên 20 km đường nhựa phẳng lì chạy ngang qua những khu dân cư, cánh đồng ngô xanh biếc như kéo những tấm lòng của người dân Lý Sơn gần lại hơn với nhau.

“Nay mai con đường cơ động dài gần 6 km từ đầu đến cuối đảo thông suốt sẽ cơ bản giải quyết vấn đề hạ tầng giao thông phục vụ kinh tế, xã hội và an ninh quốc phòng. Vũng neo đậu tàu thuyền đã hoàn thành phục vụ cho những phương tiện đánh bắt của địa phương cũng như các tỉnh lân cận tránh trú tại chỗ khi có gió bão. Cầu cảng Bến Đình, Cảng hàng hóa và dịch vụ, các hồ chứa nước; âu thuyền cứu hộ cứu nạn được đầu tư gần 70 tỷ đồng có quy mô khu vực sẽ là nơi an toàn và tin cậy khi có phương tiện gặp sự cố… tất cả đã nằm trong kế hoạch đầu tư mới”- như một kiến trúc sư, ông Huyện khái quát cho tôi một bức tranh về Lý Sơn bề thế hơn trong tương lai.
 
Vươn khơi.
Vươn khơi.

Khó khăn nhất hiện nay với người dân trên đảo là gì? Tôi hỏi. “Đó là điện sinh hoạt. Hiện trên đảo có một máy phát 1,7 MW chạy bằng dầu diezel nên chỉ cấp điện cho dân từ 17-23 giờ hằng ngày”-ông Huyện trả lời.

Nhưng dự án nhiệt điện Lý Sơn do Tập đoàn than-khoáng sản Việt Nam (TKV) làm chủ đầu tư, với số vốn trên 237 tỷ đồng, hai tổ máy công suất 6 MW đang được xây dựng, khi hoàn thành sẽ là lực đẩy cho Lý Sơn phát triển nhanh, mạnh và bền vững hơn chứ? Tôi hỏi tiếp.
 
TIN LIÊN QUAN
 Chưa ai dám chắc khi mà dự án qua một năm, dự kiến hoàn thành năm 2011 nhưng tiến độ thì đang còn dừng ở… san lấp mặt bằng. Ngừng một lát, ông Huyện tiếp: Chí ít thì điện cũng đã có hướng ra, nhưng còn một mối lo nữa cho ngư dân – đó là hiểm nguy rình rập khi họ bám biển.

Mối lo mà ông chủ tịch huyện đang băn khoăn được lão ngư Dương Văn Thọ, ở xã An Hải cho biết: “Đã bao đời nay, dù có lúc bão tố phong tỏa, cô lập Lý Sơn, đời sống người dân khổ cực, nhưng chúng tôi vẫn không rời đảo, rời biển, bởi từ sâu thẳm trong tiềm thức, đây là mảnh đất cha ông, là chủ quyền của đất nước. Bây giờ thì ngoài thiên tai, lo là bị các tàu nước ngoài bắt giữ, phạt tiền và tịch thu tài sản. 10 năm qua, hơn 100 tàu, với hàng tỷ đồng đã bị thiệt hại chính từ những mối đe dọa  đó”.

“Biết khó khăn là vậy, nhưng với những người dân đảo chúng tôi biển là hơi thở, là nguồn sống, là quê hương, là chủ quyền của đất nước, nên khó khăn đến mấy chúng tôi cũng quyết tâm bám biển, giữ biển” – lão ngư Dương Lúa, cũng ở xã An Hải khẳng định.
 
Khát vọng bám biển, giữ biển của những ngư dân Lý Sơn cũng như ngư dân miền Trung đã dần hiện rõ khi mà những đội tàu được thành lập từ 10 chiếc trở lên cùng nhau xuất phát, cùng đánh bắt, cùng bảo vệ nhau khi xảy ra hiểm nguy trên biển.

“Sự có mặt của những ngư phủ trên biển Đông, không đơn thuần là kiếm kế sinh nhai. Chúng tôi mong Nhà nước hỗ trợ tiền dầu, cho vay vốn để cải hoán, nâng công suất tàu thuyền, trang bị ngư lưới cụ, đặc biệt là máy tầm ngư để khi đánh bắt xa bờ được dài ngày, phát hiện những mối đe dọa được sớm hơn mà phòng tránh”- lão ngư Dương Chính tâm sự.

“Mỗi ngư dân là một “chiến sĩ”, mỗi chiếc tàu là một “pháo đài” giữa biển khơi. Chúng tôi cũng đã lắng nghe và quan tâm, giải quyết những đề xuất của ngư dân, tạo điều kiện để họ tiếp tục vươn khơi bám biển, giữ chủ quyền. Nhưng sức của huyện có hạn, rất mong một chính sách vĩ mô từ Nhà nước tiếp thêm sức cho chương trình đánh bắt xa bờ”-Chủ tịch UBND huyện đảo Lý Sơn Võ Xuân Huyện chia sẻ.

Bài, ảnh: Hà Minh

.