Sáo diều khuya khoắt thổi đêm trăng

10:02, 07/02/2021
.
Thanh Thảo
 
(Baoquangngai.vn)- Theo nghệ nhân ưu tú (NNƯT) Nguyễn Hữu Kiêm-người làm diều sáo nổi tiếng nhất làng Bá Dương Nội huyện Đan Phượng Hà Nội, thì nhiều chuyên gia nước ngoài đã tìm đến để nghiên cứu diều sáo Việt Nam. Họ ghi nhận trên thế giới, chỉ có Việt Nam là có diều kèm theo sáo.
 
Diều kèm sáo gọi là diều sáo. Còn sáo của những con diều gọi là sáo diều. Có thể, gốc gác xa xưa của diều giấy hay diều lụa diều vải là từ Trung Quốc.
 
Nhưng khi “nhập tịch” vào Việt Nam khoảng hơn nghìn năm trước, thì người nông dân Việt không chịu chơi “diều chay”. Họ đã sáng tạo ra diều sáo, bằng cách gắn vào diều sáo đôi, sáo ba, sáo bảy, sáo chín, tạo nên những hợp âm sáo diều giữa không trung. 
 
Ảnh Internet
Ảnh Internet
 
Khi diều được thả bay vút lên trời cao, vào buổi chiều lộng gió hay đêm trăng thanh bình, tiếng sáo diều vi vút trên tầng không là tiếng hát hòa bình của người Việt ngợi ca quê hương mình, ngợi ca chính cuộc đời lam lũ giản dị của mình. Đời khó nhọc vẫn có những lúc thanh thản. Những lúc diều sáo ngân nga, chính là lúc người nông dân Việt cảm thấy đời thanh thản nhất.
 
Diều Trung Quốc rất cầu kỳ, lộng lẫy nhưng thiếu âm nhạc. Không có sáo, diều Trung Quốc chỉ là diều của tay phù thủy kiêm địa lý Cao Biền cưỡi sang Việt Nam để thăm dò các “huyệt đạo” của núi sông Việt Nam đặng “yểm bùa” làm tắc long mạch. Theo truyền thuyết, Cao Biền cũng đã từng cưỡi diều (không sáo) bay vào vùng núi Ấn sông Trà Quảng Ngãi quê tôi để tìm long mạch, yểm bùa. Và ở đó, y đã gặp “Vua Nam Chiếu”, một đứa trẻ trâu con nhà nông Quảng Ngãi, và bị đứa trẻ anh hùng ấy đánh cho tơi bời, phải tức tốc “bám càng” diều giấy tháo chạy đến rơi cả dép khỏi vùng đất địa linh nhân kiệt này.
 
Với Trung Quốc, diều có thể là vũ khí, là khinh khí cầu hay tàu bay... giấy, dùng cho các mục đích quân sự và do thám. Còn với người Việt, diều sáo là một sản phẩm nghệ thuật, một dàn nhạc sáo tấu những khúc nhạc thanh bình giữa trời xanh, vào những đêm trăng thanh gió mát.
 
Người nông dân Việt ở đồng bằng Bắc Bộ, hay ở Thừa Thiên Huế đều biết làm diều sáo và biết làm cái khó nhất trong con diều sáo, đó là bộ sáo, dù chỉ là sáo đôi vẫn tạo được hợp âm “gọi đáp” nhau, nghe như những lời tâm tình thủ thỉ. Gọt được những lỗ sáo cho gió thổi vào phát ra âm nhạc, cây tre dùng làm ống sáo phải là tre già chết đứng trong bụi tre, và người gọt lỗ sáo phải chọn đêm trăng tĩnh lặng để hành nghề, sáo mới kêu vi vút.
 
“Cây sáo thần” ấy là niềm tự hào của người nông dân Việt, và bây giờ, là  niềm tự hào của cả quốc gia biết đưa nhạc sáo lên giữa trời xanh.
 
“Sáo diều khuya khoắt thổi đêm trăng”, câu thơ ấy của thi sĩ Quang Dũng trong bài thơ “Mắt người Sơn Tây” viết năm 1949, giữa hồi ác liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Pháp, là tiếng lòng của người Việt đau đáu với hòa bình, tìm thấy ở con diều sáo biểu tượng cho khát vọng hòa bình của mình. 
 
Dù viết không nhiều bài thơ, Quang Dũng vẫn là nhà thơ vĩ đại. Từng câu thơ của ông, như tiếng sáo diều, gây những chấn động đa chiều lặng lẽ trong lòng ta. Bởi nhịp điệu trong câu thơ Quang Dũng có những chuyển điệu bất ngờ như tiếng sáo diều, lại có những nhịp gãy, những quãng lặng thường thấy trong âm nhạc, nhưng ít thấy trong thơ Việt.
 
Từ hơn 20 năm trước, khi viết về thơ Quang Dũng trong bài “Quê nhà của Quang Dũng”, có lẽ tôi là người đầu tiên phát hiện Quang Dũng có gốc người Chàm. Bài thơ “Thu quê ai” của Quang Dũng khiến tôi rất bất ngờ:
 
“Như cảnh đã vào thu sớm
Da rợn từng cơn, núi đổ chiều
Lá mía, tàu cau rũ héo
Vàng, ôi vàng hắt hiu !
Ngồi đây bến cát triền sông Mã
Ngẫm chuyện mười năm như nước lũ
Ai hay ngày tháng lại quay về
Cẩm Thủy, Tân Giai thành vẫn đá
Những tàu cau
                            đượm làm chi ánh nắng ?
Mà sao lưu luyến người !
Ôi ta nhớ một quê nhà
Những tàu cau
                           đượm làm chi ánh nắng ?
Chum nước, gáo dừa, nhà xoan, gốc mít
Đỏ, nâu, mít chín trĩu cành
Thưa thoáng trời xưa êm ả
Lửa cơm chiều ?
Hơi thu ?
Nhựa thơm gạo mới bát chiêm chanh
Nhớ sao những tháng ngày xanh
Rất xanh !
Chiều mát. Đê dài. Cỏ may tay nhặt
Ai ơi ! Phấn trắng mía bầu
Thân ngô xơ xác
Nhặt gốc tre khô
Ta nhom ấm nước
Chiều từ đâu 
Và lạnh đến từ đâu?”
 
      (1965. Khu Tư, ven sông Mã. Ngồi bên này sông trông sang Phủ Quảng, Tây Giai. Một ngày thu nhớ nhà. Nhà ta ở đâu?)
 
Nhà ta ở đâu? Câu hỏi như một tiếng  vọng. 
 
“Đôi mắt người Sơn Tây
   U ẩn chiều lưu lạc
   Buồn viễn xứ khôn khuây”
                             (Mắt người Sơn Tây)
 
Thơ Quang Dũng là tiếng sáo diều thổi đêm trăng, nghe thật buồn.
 
“Bao giờ trở lại đồng Bương Cấn
   Về núi Sài Sơn ngó lúa vàng
   Sông Đáy chậm nguồn qua Phủ Quốc
   Sáo diều khuya khoắt thổi đêm trăng”
                                   (Mắt người Sơn Tây)
 
Nỗi buồn thanh sạch ấy gần như vĩnh cửu. Như tiếng sáo diều ở một làng quê ven bờ sông Hồng hay sông Đáy.
 
Tôi trân trọng nhắc lại lần nữa: Quang Dũng là nhà thơ vĩ đại. 
 
Với tôi, dĩ nhiên.
 
Cũng như tiếng sáo diều, với tôi, là vĩnh cửu.
 
                                                          Chiều cuối năm Canh Tý 
 
 
 
      
 

.