(Báo Quảng Ngãi)- Ông Tư nằm trên chiếc võng móc dưới tán cây xoài. Trời nắng cùng gió phơn khô nóng khiến cây cối xơ xác, tiêu điều. Hồ nước khô cạn, đàn cá ngoi đầu lên thở đầy mặt bờ. Chiếc radio phát đi bản tin dự báo thời tiết trong hai ngày đến có mưa lớn tại các tỉnh, thành phố miền Trung, một số nơi nguy cơ có lũ. Xoay volume hết cỡ, ông Tư lẩm bẩm: “Mưa một trận nhẹ cho mát cũng được. Lúa sắp gặt mưa lớn thì hỏng hết”.
Những cơn gió phơn vẫn thổi quần quật như bão cấp năm. Hè năm nay nắng nóng bất thường. Chưa bao giờ ông chứng kiến những cơn nóng có nhiệt độ kinh hoàng đến vậy. Trời xanh ngắt, không một gợn mây. Đất bạc trắng, nứt nẻ. Cái giếng từ thời ông nội để lại, sâu mấy chục mét, chưa khi nào cạn nhưng nay đã trơ đáy.
Ông Tư lẩn thẩn đi vào nhà, cầm ca nước đá uống một mạch vẫn chưa thỏa cơn khát. Nghe tin trời sắp mưa giữa nắng hạn nhưng lòng ông chẳng vui. “Lúc nào không mưa, lại nhắm lúc này mà đổ nước xuống”, nói rồi ông quơ chiếc nón cũ, đội lên đầu đi thăm đồng. Những cơn gió thổi rạt vào mặt, nắng như nung. Vụ lúa hè thu ông chăm kỹ, thức đêm hôm để canh nước. Lúa đạt năng suất, nhưng ông sợ trời không cho ăn. Khi ông quay về lại nhà, cơn dông ùa đến, mây đen kéo về. “Trời! Vậy mà đài báo hai ngày nưa mới mưa”. Vợ đi đâu không hay, ông phải loay hoay một mình mới đem hết những thứ phơi ngoài vườn vào. Khi ông vừa xong việc, thấy vợ ông lững thững ngoài cổng. Bà cũng biết lúc để về đó chứ, ông nói. Bà Nhàn cười: Tôi đi hỏi xem khi nào máy về gặt, nôn nóng quá, lúa chín rục ngoài đồng.
- Rồi họ nói như sao, ông Tư hỏi.
- Hình như ngày kia máy mới về thì phải.
- Đã mất công đi hỏi mà cũng chỉ hình như, ông Tư nói giọng hờn hờn.
- Thì ông trưởng thôn nói thế.
- Làm ăn thế này thì chết. Hợp đồng máy móc mà chẳng cụ thể chi cả, ông Tư tặc lưỡi.
Vợ chồng ông năm nay đã hơn bảy mươi tuổi. Cả hai quanh quẩn cùng nhau với căn nhà, góc vườn khi con cháu đều cư ngụ làm việc ở thành phố. Mấy lần về thăm nhà, các con khuyên nên bỏ hết ruộng đất. Ông Tư không nghe. Ông nói rằng nay làm ruộng khỏe, máy móc làm hết. Ba gắng làm cho tụi bây ăn, mua gạo bên ngoài không ngon mà còn đắt. Cái lý của ông Tư đưa ra khiến con cháu hết muốn khuyên thêm.
Cả một đời ông lam lũ với đất đai, ruộng vườn cùng vợ nuôi năm đứa con ăn học nên người. Giờ con cái muốn đưa lên phố ở cùng nhưng ông từ chối. Ông không muốn các con phải lo rồi thêm gánh nặng, với lại “ba lên đó ở chi được mà đòi đem lên”. Tính ông Tư là vậy, không bao giờ phụ thuộc ai. Bà Nhàn biết tính chồng nên cũng chẳng khuyên can gì. Cơn dông kéo đến rồi tan nhanh, chẳng có hạt mưa nào đổ xuống, trời quang mây, không khí lại trở nên nóng, oi bức.
Sáng sớm, khi mặt trời chưa kịp ló dạng, ông Tư lại đi ra đồng. Ông lội từ thửa ruộng này sang thửa khác, tay cầm những nhánh lúa trĩu bông vừa mừng, vừa lo. “Cháu nghe máy sắp về gặt chưa?”, ông Tư hỏi lớn khi thấy thằng Tuấn xóm trên đi thăm đồng.
- Cháu cũng không rõ, nghe một tuần nữa máy mới về thì phải.
- Hôm qua bà vợ chú bảo hai ngày nữa mà. Làm ăn thế này thì chết.
Bà Nhàn lo xong bữa sáng chờ mãi chưa thấy chồng về, bà ăn trước, miệng thầm thì: “Khéo lại đi hỏi việc máy móc rồi. Đã bảo bỏ ruộng đừng có làm rồi mà không chịu nghe. Mùa nào cũng lo sợ mưa”. Tiếng ông Tư đằng hắng ngoài ngõ, vừa đi vừa nói vọng vào: “Lúa rục ngoài đồng mà máy nghe một tuần nữa mới về gặt”. Bà Nhàn bưng tô cháo ra cho chồng, khuyên ông xong vụ này cho người khác làm ruộng, ăn bao nhiêu đâu mà cứ ham hố cho cực. Ông Tư ăn vài thìa lại đưa mắt nhìn xa xăm ngoài đồng, buông tiếng thở dài.
Hôm sau, từ sớm đã nghe tiếng máy gặt về đến cánh đồng trước nhà. Ông Tư vội bỏ bữa ăn sáng, cầm bao, đội nón ra xem. Bà Nhàn ngồi giặt áo quần ở góc giếng nói với theo dặn ông ăn sáng rồi đi đâu thì đi, máy cũng chưa đến ruộng nhà mình. Ông Tư bỏ ngoài tai lời vợ, ông cứ ôm đống bao tất tả đi.
Ngoài đồng, người dân đã ra từ sớm, ngồi chờ máy đến ruộng. Chiếc máy chuẩn bị cắt sào đầu tiên thì mây đen kéo đến, chẳng bao lâu thì đổ mưa. Người dân bỏ về nhà, một số trùm áo mưa ngồi đợi. Chủ máy thấy mưa lớn cũng dừng hẳn, đưa máy lên bờ. Mưa mỗi lúc một lớn, người dân về nhà. Thấy tình hình không ổn, ông Tư thất thểu ôm đống bao về theo. “Mưa như này không khéo lũ lớn cũng nên”, ông Tư lại lẩm bẩm một mình. Cơn mưa mỗi lúc một nặng hạt, kèm gió lớn. Đến chiều muộn, nước đã ngập nửa thân cây lúa. Mưa vẫn chưa có dấu hiệu dừng. Sáng hôm sau, cả đồng lúa chìm trong biển nước mênh mông, trời vẫn âm u. Ông Tư ngồi uống nước trà, mắt nhìn ra biển nước. “Mất trắng rồi còn đâu nữa”, ông nói một mình.
Bà Nhàn bưng đồ ăn sáng ra cho chồng, mở lời: Thôi, ông trời không cho ăn thì đành chịu. Than vãn cũng chẳng được chi.
Ông Tư cầm muỗng định ăn lại đặt xuống, đội nón đi thăm đồng. Thằng Bền, đứa con đầu nghe tin mưa lũ điện về hỏi thăm. Bền dặn mẹ đừng cho ông đi ra ruộng, nước ngập nguy hiểm. Nhưng bà Nhàn nào ngăn được chồng. “Ba mày mới đội nón đi rồi”. “Khổ, nước ngập thì thôi. Cả tỉnh này bị chứ đâu chỉ riêng nhà mình. Tý trưa vợ chồng con về”, thằng Bền nói vậy rồi tắt máy. Bà Nhàn bỏ bữa sáng, ra ở cổng đứng ngóng.
Mưa ngớt nhưng nước vẫn chưa rút. Mấy đám thanh niên đem rớ ra đánh bắt cá. Lũ kéo một đám bèo lục bình trôi về, phủ kín cả mặt ruộng. Một vài người chèo ghe, dùng sào đẩy lớp bèo ra khỏi ruộng. Ông Tư quay về nhà, định đem ghe ra đẩy nhưng đã bị bà vợ can ngăn: “Ông già cả chống chèo lỡ có chuyện chi thì khổ”. “Bèo đó không đẩy đi, nước rút nó đè lên lúa rồi làm sao mà gặt”, ông Tư đáp lại. “Nước ngập, lúa cũng hư hết rồi cứu chi nữa mà cứu cho khổ”, bà Nhàn đáp lời.
Ông Tư tiếc đám ruộng, cũng chần chừ vì sợ nước lớn nguy hiểm. Nhưng công sức cả một mùa vụ buộc ông đẩy chiếc ghe ra. Bà Nhàn thấy vậy chẳng can ngăn được, phải điện kêu cứu đứa con. Thằng Bền nghe chuyện lại phải bỏ dở việc giữa chừng chạy xe về. Nó về đến đầu làng thì ông Tư đã đẩy được mấy lượt bèo. Thằng Bền nhảy xuống ô tô, đứng trên đường kêu lớn: “Cho ghe vô đi ba ơi! Nguy hiểm, lúa hư thì thôi”. Ông vẫn miệt mài đẩy bèo. “Bây vô nhà đi, xong đám này rồi tao chèo ghe vô”, ông Tư vừa nói vừa ra hiệu cho thằng con.
Thằng Bền chẳng làm sao được, nó phải nhờ một thanh niên gần đó chở ra để bắt ông vào. “Ăn thua chi mà bây lo. Xưa tao chèo ghe bắt cá kiếm tiền nuôi tụi bây đó thôi”. “Xưa khác, giờ khác. Ba chèo ghe vô đi”, hai cha con nói qua nói lại một hồi ông mới chịu vào cùng con. Ông Tư chèo ghe đến sát thằng Bền thì vấp phải cái cọc nằm khuất dưới dòng nước. Chiếc ghe chao đảo, suýt lật úp. Thằng Bền được sức quát lớn: “Đấy, ba thấy chưa. Ham hố chi cho khổ, nhà đâu nghèo túng, thiếu ăn”.
Sợ ông Tư lại chèo ghe ra mấy thửa ruộng, thằng Bền xin nghỉ phép mấy hôm. Những ngày ở nhà, nó ra sức khuyên ông bỏ ruộng, nhưng ông Tư thì vẫn chưa trả lời dứt khoát. Ông bảo để tao xem lại, năm này xui thôi, chứ làm gì xui mãi.
Nước rút sau hai ngày sau, lúa ngã rạp, lẫn trong bùn đất. Ông Tư đứng trên bờ nhìn xuống tiếc đứt ruột nhưng cũng chẳng biết làm thế nào. Thằng Bền đi ra đứng bên cạnh, bảo lúa vậy thì bỏ chứ gặt về làm gì nữa. Ông Tư gạt phăng ý nghĩ đó của con: “Bỏ sao được, gặt về phơi dành nuôi gà”. Thằng Bền bỉu môi: “Gà thì ăn bao nhiêu. Mấy đám ruộng bùn này giờ mà lội xuống gặt thì khổ”. Ông Tư đứng bên quát lớn “bây không làm thì để đó tao”. “Thì nói vậy chứ ai không làm đâu”, Bền nói.
Hôm sau nước rút cạn, nắng lên, cả làng đổ ra đồng gặt lúa. Ông Tư thuê một người, thêm hai đứa con và thằng Bền đi gặt đám lúa. Bà Nhàn ở nhà lo cơm nước. Cả mấy người làm quần quật một buổi sáng chỉ được nửa sào ruộng. Thằng Bền đứng lên ngồi xuống uể oải, mấy lần nói ông Tư bỏ quách đi cho xong. “Mày không làm thì lên đi, đừng bàn lùi”, bị quát, thằng Bền đành im lặng tay vớt một vài cọng lúa trong sự ấm ức.
Làm được một lúc đến trưa, chuẩn bị nghỉ thì ông Tư bị chiếc liềm cứa một nhát vào ngón áp út, suýt đứt lìa. Ngón tay dính lại chút da treo lủng lẳng. Thằng Bền thấy vậy vội chạy đến. Những người gặt ruộng bên cũng chạy lại giúp sức dìu ông lên bờ ngồi. Thằng Bền chạy về lấy ô tô chở thẳng ra bệnh viện thành phố. Ông Tư được nối lại ngón tay sau ca phẫu thuật kéo dài ba giờ đồng hồ. Vài ngày sau, ông ra viện, mấy đứa con ý định đưa bố mẹ lên thành phố ở để còn chăm vết thương cho. Nhưng ông Tư từ chối: Cái vết thương này ăn thua chi.
Mấy sào ruộng thu hoạch chưa xong thì xảy ra chuyện, thằng Bền cũng chẳng sức đâu mà gặt. Một số lúa đã gặt nó thuê xe chở về. Lúa lẫn bùn đất, cái nẩy mầm, cái đen thối. Đám gà cũng chẳng thèm để ý đến. Thằng Bền lại có cớ để nói ông Tư, nhưng nó cũng chỉ khuyên ông bỏ ruộng.
Ông Tư ngồi trên chiếc ghế tựa nhìn ra đống lúa, cũng muốn nói gì đó nhưng lòng cảm thấy đã làm mấy đứa con khổ theo nên thôi. Trong suy nghĩ của ông đâu đó đã có lúc lóe lên ý định sẽ không làm ruộng sau khi trải qua những vụ việc vừa rồi.
Vụ mùa sau, ông cho thằng Tuấn làm hết cả năm sào ruộng. Mấy đứa con nghe tin vậy cũng mừng ra mặt. Thằng Bền điện về nói mỗi tháng sẽ gửi cho bố mẹ vài triệu đồng để ăn uống. Ông Tư gạt phăng: “Ba mẹ còn mảnh vườn, quanh quẩn cũng đủ ăn. Khi nào hết sức rồi tụi bây nuôi vẫn chưa muộn”.
NGUYỄN ĐẮC THÀNH
TIN, BÀI LIÊN QUAN: