Quýt có nhiều chất dinh dưỡng có tác dụng bồi bổ sức khoẻ, được nhân dân dùng làm thức ăn cho người bệnh, người yếu mệt, làm thuốc chữa khát, chữa bệnh thiếu vitamin C và giải say rượu.
Nhiều bộ phận của quả quýt còn được Đông y dùng làm thuốc như hạt quýt và vỏ quýt. Trong đó phổ biến nhất là trần bì (vỏ quýt chín phơi khô).
Theo Đông y, vỏ quýt vị cay đắng, tính ôn, vào tỳ, phế. Có tác dụng làm ấm dạ dày, kiện tỳ, lý khí, hoá đờm, tiêu tích, chỉ khái. Dùng cho các trường hợp đầy tức bụng ngực, nôn nấc, ăn kém chậm tiêu, viêm khí phế quản, ho đờm nhiều. Ngoài chứa nhiều tinh dầu để quýt có mùi thơm độc đáo thì vỏ quýt còn là một vị thuốc trị bệnh đường hô hấp và tiêu hóa rất hữu hiệu.
Ôn vị, chống nôn: Thang quất bì: Quất bì 12g, gừng tươi 8g. Sắc uống. Dùng khi dạ dày lạnh, nôn ợ hơi.
Hoá đờm, trị ho: Nhị trần thang: Trần bì 8g, bán hạ 12g, phục linh 12g, cam thảo 4g. Sắc uống. Trị ho đờm vướng trong cổ không ra được.
Hoặc: Trần bì 500g, cát cánh 125g, tô diệp 125g, cam thảo 1000g. Nghiền bột mịn, làm hoàn. Uống lúc sáng sớm và tối, mỗi lần 8g. Trị viêm phế quản cấp tính.
Gà kho trần bì tốt cho người có hội chứng đau loét dạ dày, tá tràng, trướng bụng đầy hơI, đau vùng thượng vị, đau thần kinh liên sườn, đau tức vùng ngực.
Món ăn bài thuốc có vị trần bì
Cháo trần bì: Gạo tẻ 150g, trần bì 15 - 20g. Sắc hoặc hãm trần bì lấy nước, bỏ bã, đem nước sắc nấu với gạo thành cháo, thêm chút đường, muối gia vị, tuỳ theo khẩu vị. Dùng cho trường hợp đầy bụng đau quặn, buồn nôn, nôn, ho có nhiều đờm.
Cháo trần bì, phục linh, đại táo: Gạo tẻ 100g, đại táo 10 quả, trần bì 10g, phục linh 15g. Trần bì, phục linh gói trong vải xô, đem nấu cháo cùng gạo tẻ và đại táo. Khi cháo chín nhừ, lấy bỏ gói dược liệu; chia 2 lần ăn trong ngày. Dùng cho các chứng tinh thần phân liệt, trầm uất, kích động trong bệnh tâm thần.
Gà kho trần bì hương phụ: Thịt gà 800g, trần bì 20g, hương phụ (sao dấm) 15g. Trần bì, hương phụ nấu lấy nước, bỏ bã; thịt gà rửa sạch, chặt miếng; đem nước sắc kho với thịt gà đến khi cạn nước, cho thêm ít gừng tươi (đập vụn), hành, gia vị, đảo đều là được. Dùng cho các bệnh nhân có hội chứng đau loét dạ dày, tá tràng, trướng bụng đầy hơi, đau vùng thượng vị, đau thần kinh liên sườn, đau tức vùng ngực.
Gà hầm trần bì nhục quế: Gà 1 con, trần bì 10g, nhục quế 6g. Gà làm sạch, chặt miếng; trần bì rửa sạch thái mỏng; quế tán bột hoặc đập vụn. Cho tất cả vào nồi, thêm nước, hầm chín, cho muối gia vị. Cho ăn trong ngày. Liên tục đợt 5 ngày. Dùng cho bệnh chứng lưu đàm (tương đương các chứng bệnh lao xương, lao khớp).
Canh cá diếc trần bì: Cá diếc (hoặc cá chép) 1 con (khoảng 500g), trần bì 12g, quyết minh tử 10g. Cá đánh vảy bỏ ruột; trần bì, quyết minh tử gói trong vải xô cùng nấu với cá. Khi cá chín nhừ lấy bỏ gói bã thuốc, thêm gia vị phù hợp. Mỗi ngày cho ăn 1 lần, liên tục một đợt 5 - 10 ngày. Dùng cho các trường hợp viêm thần kinh hậu nhãn cầu, viêm võng mạc trung tâm có các biểu hiện thị lực giảm, có cảm giác ruồi bay và ám điểm trước mắt, đau đầu đau nhức mắt, buồn nôn nôn.
Nước hãm trần bì: Trần bì 30g. Nướng phồng, tán mịn pha nước uống, hoặc uống với nước. Dùng cho các trường hợp nấc sau khi ăn.
Kiêng kỵ: Người âm hư ho khan không có đờm, thổ huyết không dùng trần bì.
Nhiều bộ phận của quả quýt còn được Đông y dùng làm thuốc như hạt quýt và vỏ quýt. Trong đó phổ biến nhất là trần bì (vỏ quýt chín phơi khô).
Theo Đông y, vỏ quýt vị cay đắng, tính ôn, vào tỳ, phế. Có tác dụng làm ấm dạ dày, kiện tỳ, lý khí, hoá đờm, tiêu tích, chỉ khái. Dùng cho các trường hợp đầy tức bụng ngực, nôn nấc, ăn kém chậm tiêu, viêm khí phế quản, ho đờm nhiều. Ngoài chứa nhiều tinh dầu để quýt có mùi thơm độc đáo thì vỏ quýt còn là một vị thuốc trị bệnh đường hô hấp và tiêu hóa rất hữu hiệu.
Vỏ quýt khô cho vị thuốc trần bì, là vị thuốc trị ăn kém chậm tiêu, viêm khí phế quản. |
Hoá đờm, trị ho: Nhị trần thang: Trần bì 8g, bán hạ 12g, phục linh 12g, cam thảo 4g. Sắc uống. Trị ho đờm vướng trong cổ không ra được.
Hoặc: Trần bì 500g, cát cánh 125g, tô diệp 125g, cam thảo 1000g. Nghiền bột mịn, làm hoàn. Uống lúc sáng sớm và tối, mỗi lần 8g. Trị viêm phế quản cấp tính.
Gà kho trần bì tốt cho người có hội chứng đau loét dạ dày, tá tràng, trướng bụng đầy hơI, đau vùng thượng vị, đau thần kinh liên sườn, đau tức vùng ngực.
Món ăn bài thuốc có vị trần bì
Cháo trần bì: Gạo tẻ 150g, trần bì 15 - 20g. Sắc hoặc hãm trần bì lấy nước, bỏ bã, đem nước sắc nấu với gạo thành cháo, thêm chút đường, muối gia vị, tuỳ theo khẩu vị. Dùng cho trường hợp đầy bụng đau quặn, buồn nôn, nôn, ho có nhiều đờm.
Cháo trần bì, phục linh, đại táo: Gạo tẻ 100g, đại táo 10 quả, trần bì 10g, phục linh 15g. Trần bì, phục linh gói trong vải xô, đem nấu cháo cùng gạo tẻ và đại táo. Khi cháo chín nhừ, lấy bỏ gói dược liệu; chia 2 lần ăn trong ngày. Dùng cho các chứng tinh thần phân liệt, trầm uất, kích động trong bệnh tâm thần.
Gà kho trần bì hương phụ: Thịt gà 800g, trần bì 20g, hương phụ (sao dấm) 15g. Trần bì, hương phụ nấu lấy nước, bỏ bã; thịt gà rửa sạch, chặt miếng; đem nước sắc kho với thịt gà đến khi cạn nước, cho thêm ít gừng tươi (đập vụn), hành, gia vị, đảo đều là được. Dùng cho các bệnh nhân có hội chứng đau loét dạ dày, tá tràng, trướng bụng đầy hơi, đau vùng thượng vị, đau thần kinh liên sườn, đau tức vùng ngực.
Gà hầm trần bì nhục quế: Gà 1 con, trần bì 10g, nhục quế 6g. Gà làm sạch, chặt miếng; trần bì rửa sạch thái mỏng; quế tán bột hoặc đập vụn. Cho tất cả vào nồi, thêm nước, hầm chín, cho muối gia vị. Cho ăn trong ngày. Liên tục đợt 5 ngày. Dùng cho bệnh chứng lưu đàm (tương đương các chứng bệnh lao xương, lao khớp).
Canh cá diếc trần bì: Cá diếc (hoặc cá chép) 1 con (khoảng 500g), trần bì 12g, quyết minh tử 10g. Cá đánh vảy bỏ ruột; trần bì, quyết minh tử gói trong vải xô cùng nấu với cá. Khi cá chín nhừ lấy bỏ gói bã thuốc, thêm gia vị phù hợp. Mỗi ngày cho ăn 1 lần, liên tục một đợt 5 - 10 ngày. Dùng cho các trường hợp viêm thần kinh hậu nhãn cầu, viêm võng mạc trung tâm có các biểu hiện thị lực giảm, có cảm giác ruồi bay và ám điểm trước mắt, đau đầu đau nhức mắt, buồn nôn nôn.
Nước hãm trần bì: Trần bì 30g. Nướng phồng, tán mịn pha nước uống, hoặc uống với nước. Dùng cho các trường hợp nấc sau khi ăn.
Kiêng kỵ: Người âm hư ho khan không có đờm, thổ huyết không dùng trần bì.
Theo TS. Nguyễn Đức Quang/SKĐS