(Báo Quảng Ngãi)- Nhà Nguyễn trị vì đất nước Việt Nam từ năm 1802 đến 1945. Trong khoảng thời gian này, đã có hàng trăm trận bão càn qua, không chỉ ở miền Trung. Có những trận bão làm chết đến hàng nghìn người, sụp đổ hàng vạn ngôi nhà ở khắp đất nước ta.
[links()]
Hơn 5.500 người chết trong một trận bão
Từ thời Gia Long đến các vị vua sau này, không năm nào không có bão. Trong bộ Đại Nam thực lục (chính biên) đều có ghi chép về những trận bão đi qua các tỉnh từ Bình Thuận đến các tỉnh phía Bắc, trong đó có nhiều trận bão kinh hoàng, như các trận bão vào những năm Gia Long thứ 10 (1811), Minh Mệnh thứ 8 (1811), Thiệu Trị thứ 2 (1842), Thiệu Thị thứ 6 (1846), Tự Đức thứ 20 (1867)... Sau này còn có một vài tài liệu viết về trận bão năm Thành Thái thứ 16 (1904) và một số trận bão kinh hoàng khác nữa.
Trận bão kinh hoàng nhất, có lẽ là trận bão vào năm Nhâm Dần, niên hiệu Thiệu Trị thứ 2 (1842). Trong trận bão này, Nghệ An có 40.753 ngôi nhà bị đổ nát, 696 thuyền buôn và thuyền đánh cá bị chìm, nước biển dâng lên 14 - 15 thước (khoảng 3,5 - 4 mét), 5.240 người bị chết, đặc biệt là ở các vùng ven biển thuộc hạt Đông Thành, An Thành và Chân Lộc. Có thôn thuộc An Thành có 300 người, nhưng còn có 10 người sống sót qua trận bão.
Nhà anh Võ Hồng Thanh, ở thôn Vạn Tường, xã Bình Hải, huyện Bình Sơn bị sập sau bão số 9 năm 2020. Ảnh: T.L |
Tại Hà Tĩnh có 9.160 nhà bị đổ nát, 136 thuyền bị đắm, 157 người bị chết. Thuyền của Thanh Hóa chở hàng hóa lẫn tù binh cũng bị đắm chìm, vỡ toang, làm 71 người chết, trong đó có 1 suất đội, 36 lính, 43 tù nhân. Tại kinh thành (Huế), hơn 700 nhà dân bị lật đổ, nhiều người chết đuối.
Tổng số người bị chết ở các tỉnh này trong trận bão năm 1842 lên đến hơn 5.500 người, đó là chưa nói đến con số thiệt hại tại các tỉnh, thành khác. Những con số đó chỉ là những con số chỉ dựa vào lời phi tấu của các quan tỉnh thành, còn theo lời tâu của Binh khoa Chưởng ấn Cấp sự trung Trần Thiện sau khi ở Hà Nội về, thì ngoài nhà cửa đổ nát, ván thuyền trôi dạt vào trong ruộng, xác người chết còn nằm la liệt phơi ở bên đường, không đếm hết.
Các tác sách Đại Nam thực lục còn cho biết, trận bão này cũng càn quét qua các tỉnh Quảng Trị, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, làm nhiều người chết, nhiều cửa nhà bị sụp đổ, nhưng không nêu con số thống kê cụ thể.
Vào năm Bính Ngọ, niên hiệu Thiệu Trị thứ 6 (1846), lại có một trận bão xảy ra vào tháng 5 nhuận. Các tỉnh bị thiệt hại nặng nhất vẫn là Nghệ An và Hà Tĩnh. Nghệ An có 22.980 ngôi nhà bị sụp đổ, 296 thuyền bị đắm, 722 đình chùa, đền miếu bị hư hại nặng nề, 120 người bị chết. Hà Tĩnh có 1.913 ngôi nhà sụp đổ, 38 đền chùa bị tan hoang, 9 chiếc thuyền của dân bị đắm, 34 người chết.
Vào năm Tự Đức thứ 20 (1867), một trận bão kinh hoàng vào tháng 5, đã làm đổ nát hơn 10 vạn ngôi nhà, hàng nghìn chiếc thuyền bị đắm, vỡ đê, nước biển dâng cao. Các tỉnh bị thiệt hại nặng nề nhất là: Sơn Tây, Hà Nội, Bắc Ninh, Hưng Yên, Nam Định, Hải Dương, Quảng Yên, Ninh Bình, người chết không đếm xuể.
Còn nhiều cơn bão khủng khiếp khác trong thời nhà Nguyễn, như trận bão trái mùa vào ngày 1 tháng 5 năm 1904 (nhằm ngày 16 tháng 3 năm Giáp Thìn), năm Thành Thái thứ 16, làm hơn 3.000 người ở Sài Gòn bị chết, mà ở đây chưa có dịp đề cập.
Trong trận bão năm 1842, vua Thiệu Trị tự trách mình, đại ý rằng: Có lẽ do mình đức bạc, không đủ để làm cho trời đất dung hòa, nên người dân phải gánh chịu đau thương. Làm vua mà để cho một kẻ đói, một kẻ rét thì đều là do trách nhiệm của nhà vua, bởi vậy cần phải lo cứu vớt những người đói khổ (Đại Nam thực lục, đệ tam kỷ, quyển XXIII). |
“Lấy lòng trẫm làm lòng mình, coi việc nước như việc nhà”
Đó là lời của vua Thiệu Trị chỉ dụ cho Khâm sai đại thần - Thượng thư Bộ Lại Tôn Thất Bạch cùng Hộ đốc Tôn Thất Đường cấp tốc đi chẩn tế ở các địa phương bị bão lụt nặng nề, bởi theo nhà vua, để cứu họ, trước hết là phải lo việc chẩn tế. Nhà vua chỉ dụ: Quan chức các địa phương ở hai ty Phiên, Niết (ty Bố chánh và Án sát) cùng Lãnh binh phải đi trực tiếp khảo sát, chia dân đói khổ, thiệt hại làm 2 hạng, rồi trích tiền, gạo ở kho tỉnh, phủ, ra khẩn trương cứu tế. Các công trình hư hại thì quá nhiều, vậy nên cân nhắc sửa chữa, trước hết là phải lo cho dân.
Ngoài việc các địa phương phải lo kịp thời chẩn tế, về phía triều đình, dưới chỉ dụ của nhà vua, Khâm sai đại thần Tôn Thất Bạch cùng với Hộ đốc Tôn Thất Đường cũng đã hỏa tốc đến Nghệ An, cắt cử người đến 118 xã, thôn, chi tiền 72.000 quan, cấp hơn 400 phương gạo, 1.300 hộc thóc. Một người bị chết được hỗ trợ 3 quan để mai táng. Nhà, thuyền bị hư hại thì chiếu theo mức độ thiệt hại mà cấp: Thiệt hại nhiều 3 quan, thiệt hại vừa 2 quan, thiệt hại ít 1 quan. Lại chia thứ hạng mà chẩn cấp, ưu tiên cho những người già yếu không nơi nương tựa, đàn bà, con gái, trẻ con (Đại Nam thực lục, đệ tam kỷ, quyển XXIII).
Trong trận bão năm 1846, vua Thiệu Trị cũng sai ngay các quan Khoa đạo là Nguyễn Hữu Thành, Đặng Minh Trân khẩn trương phối hợp với các quan ở tỉnh xuất tiền, gạo cứu trợ cho dân. Ở Nghệ An chi ra 32.282 quan tiền, Hà Tĩnh chi ra 2.117 quan tiền, 32 phương gạo (Đại Nam thực lục, đệ tam kỷ, quyển LVIII, theo bản của Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2007).
Bên cạnh việc chẩn tế, các triều vua cũng chú trọng đến việc "cho dân vay thóc gạo, hoặc tạm ứng trước thóc gạo" từ các kho công của Nhà nước, các kho chứa ở các địa phương, như các kho Thường bình, Xã thương, Nghĩa thương. Việc cho vay không chỉ làm cho người dân có cái ăn mà còn làm bình ổn thị trường lúa gạo.
Sách Minh Mệnh chính yếu viết rằng: Vào năm Minh Mệnh thứ 12 (1831), hai tỉnh Nam - Ngãi bị nạn bão lụt, nhiều nhà phải bắc sàn lên nóc. Tỉnh thần chiếu theo miệng ăn từng nhà mà cấp muối gạo. Vua Minh Mạng có dụ rằng: Cần phải xem xét lại, nếu cần thì tiếp tục phát gạo, muối, lại sai hỏi rõ trong dân gian ai muốn lãnh tiền trước bán đường, bán quế thì cũng cho phép xuất lúa công ra để ứng trước cho dân theo thời giá.
Sách Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, quyển 63 (theo bản của Nxb Thuận Hóa, Huế, 2005) ngoài phần ghi chép về việc chẩn tế đến 19 lần cho dân bị thiên tai từ thời Gia Long thứ 8 (1809) đến năm Tự Đức thứ 4 (1851), còn ghi chép về việc xuất gạo cho dân vay từ năm Gia Long thứ 5 (1816) đến thời Tự Đức, với tất cả 22 lần, trong đó có hàng chục lần do bị bão lũ khắp cả nước.
Cùng với việc chẩn tế, cho vay lúa gạo, các triều vua còn chú trọng đến "việc giảm, hoãn thuế cho dân". Từ năm Gia Long thứ 5 (1806) đến năm Tự Đức thứ 2 (1849) có tất cả 17 lần miễn thuế, 7 lần giảm thuế tô (thuế nộp bằng thóc), vì hạn hán, sâu bệnh, đặc biệt là do bị bão lụt. Trong trận bão kinh hoàng vào tháng 5, năm Tự Đức thứ 20 (1867), nhà vua sai ngay Tham tri Nguyễn Mại, Biện lý Nguyễn Huy Tế, Tôn Thất Tĩnh khẩn trương chia nhau đi chẩn tế, phân từng bậc để miễn, giảm các thứ thuế cho dân.
Song song với các công việc này, các triều vua Nguyễn cũng chú trọng đến việc "lập các Sở Dưỡng tế" cho những người không nơi nương tựa, "hoãn việc mộ lính, cử quan chức đi khám đồng lúa, khuyến khích việc quyên góp bằng tiền, thóc". Sách Khâm định Đại Nam hội điển sử lệ có ghi chép tên họ của những chủ lạc quyên ở khắp nơi trong cả nước, từ Hà Nội đến các tỉnh. Nhiều nhất là các nhà hảo tâm ở Gia Định, Biên Hòa, Vĩnh Long, Định Tường, An Giang... với hàng trăm người.
Bê trễ, lơ là chuyện bão lụt: Trừng phạt
Cũng trong trận bão năm 1842, sách Đại Nam thực lục có cho biết rằng: Lo sợ không được chu đáo với dân, lo đến từng người dân bị đói nên đêm khuya vua Thiệu Trị vẫn miệt mài xem các tập tấu trình, chưa sáng đã khoác áo dậy, nhưng các quan chức ở Bộ Hộ lại tỏ ra lười biếng, trễ nải, không tấu trình kịp thời, để nhà vua phải cắt cử các quan ở Nội các làm thay. Vua ra dụ, phải chiếu pháp luật xử tội các đường quan lơ là, trễ nải.
Trong trận bão năm 1846, quan tỉnh Nghệ An tấu trình: Trong trận bão này, thuyền to chở đường biển, thuyền tuần dương, thuyền hải vận, mỗi thứ 2 chiếc đều bị va vào bờ vỡ nát, hàng hóa đều bị đắm chìm. Nhà vua sai Thực đốc Đặng Đức Thiệm điều tra để tâu cho rõ. Sau khi Đặng Đức Thiệm tâu lên, vua cho rằng: Thuyền hải phận không có tình tiết gì mà bỏ mặc không bảo quản; còn thuyền tuần dương thì ở đường sông, sóng cồn không ví như ngoài biển được, thế mà bị đắm, là do quản thuyền, lái thuyền và biền binh. Vì vậy phải cách chức quản thuyền, các phụ thuyền; lái thuyền thì cho về binh ngũ; các binh lính mỗi người phải bị chịu phạt 100 trượng.
Tuy lo toan nhiều nỗi, khá minh bạch cũng như rất đỗi nghiêm khắc, nhưng có lẽ nhà vua thì ở trên cao còn thần dân thì xa vời vợi, nên mọi nỗ lực cũng chỉ có kết quả ở một chừng mực. Những câu chuyện mà Retord - Giám mục địa phận Tây Bắc Kỳ kể về nỗi thống khổ của nhân dân Bắc Kỳ trong trận bão lụt năm 1857 sẽ thấy rõ hơn về nạn đói, chết chóc và sự nhũng nhiễu, bòn xén, cướp bóc của quan lại, chức dịch ở hương thôn (xem thêm: Nạn lụt, đói và tình trạng khốn cùng của nông dân Bắc Kỳ năm 1857 qua lời kể của Rerord, Nguyễn Văn Kiệm sưu tầm và dịch, tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 5 - 2000).
TS.NGUYỄN ĐĂNG VŨ