(Báo Quảng Ngãi)- Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng sôi nổi, phong phú, với bao khó khăn, thử thách, dù ở cương vị công tác nào, Đại tướng, Chủ tịch nước Lê Đức Anh cũng luôn hoàn thành xuất sắc trọng trách trước Đảng, Nhà nước, Tổ quốc và nhân dân; đóng góp to lớn cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đúng như Cố Tổng Bí thư Đỗ Mười đã khẳng định, đồng chí “là một trong những nhà chính trị tầm cỡ, nhà quân sự lớn của Đảng và Nhà nước ta”.
Một tài năng quân sự, nhà tham mưu chiến lược tài ba
Đồng chí Lê Đức Anh (bí danh Nguyễn Phú Hòa, còn gọi là Chín Hòa, Sáu Nam), sinh ngày 1.12.1920 tại làng Trường Hà, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế.
Chủ tịch nước Lê Đức Anh gặp Chủ tịch Cuba Fidel Castro trong chuyến thăm hữu nghị chính thức Cộng hoà Cuba (12 - 17.10.1995). Ảnh: TTXVN |
Sinh ra và lớn lên trên mảnh đất quê hương giàu truyền thống yêu nước và đấu tranh cách mạng, thấu hiểu sự nghèo đói, lam lũ của người dân lao động cùng khổ dưới ách thống trị của thực dân, phong kiến, đồng chí sớm giác ngộ và tham gia hoạt động cách mạng từ năm 1937. Năm 1938, trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) khi mới 18 tuổi.
Sau một thời gian hoạt động ở quê nhà, theo chủ trương của tổ chức và để tránh sự khủng bố của địch, đồng chí bí mật hoạt động trong các hội Ái Hữu ở Hội An, Đà Lạt, Lộc Ninh, Thủ Dầu Một và các nghiệp đoàn cao su ở Lộc Ninh, Quản Lợi, Xa Can, Xa Cát để gây dựng phong trào cách mạng.
Ngày 23.9.1945, kháng chiến Nam Bộ bùng nổ, đồng chí được điều vào quân đội. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954), đồng chí lần lượt đảm nhiệm các chức vụ từ cấp đại đội, chi đội, trung đoàn, đến Tham mưu trưởng Khu 7, Khu 8, Đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn đến Tham mưu phó Bộ Tư lệnh Nam Bộ. Những năm kháng chiến đầy gian khó đó, đồng chí đã bám sát thực tiễn, vận dụng đúng đắn, sáng tạo quan điểm, đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng vào điều kiện cụ thể của từng địa bàn, theo phương châm dựa vào dân mà chiến đấu, góp phần vào thắng lợi quan trọng của các chiến dịch, đi đến kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Sau Hội nghị Giơnevơ năm 1954, đồng chí tập kết ra Bắc. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), đồng chí được Đảng giao các chức vụ: Cục phó Cục Tác chiến; Cục trưởng Cục Quân lực - Bộ Tổng Tham mưu; Phó Tổng Tham mưu trưởng QĐND Việt Nam; Phó Tư lệnh, Tham mưu trưởng Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam; Tư lệnh Quân khu 9; Phó Tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh kiêm Tư lệnh cánh quân hướng tây - tây nam đánh vào Sài Gòn.
Với tư chất của một nhà chỉ huy quân sự mưu lược, quyết đoán và dũng cảm, đồng chí đã tham gia hoạch định và tổ chức thực hiện thành công nhiều kế hoạch tác chiến chiến lược, như cuộc Tổng tiến công và nổi dậy tết Mậu Thân (1968); cuộc tiến công chiến lược năm 1972 và cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Thực tiễn chiến trường cho thấy, đồng chí là một tài năng quân sự, nhà tham mưu chiến lược tài ba của Đảng và quân đội...
Nhiều dấu ấn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Tháng 6.1978, đồng chí lại được điều động trở lại Đông Nam Bộ, giữ trọng trách Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 7 để chuẩn bị cho những chiến dịch lớn trừng trị bè lũ Pôn Pốt - Iêng Xary, đẩy chúng ra khỏi biên giới và giúp bạn đánh đổ chế độ diệt chủng, cứu dân tộc Campuchia khỏi thảm họa diệt chủng. Tháng 6.1981, đồng chí được bổ nhiệm giữ chức Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia. Trong gần 7 năm gắn bó với chiến trường này, đồng chí đã chỉ huy bộ đội quân tình nguyện và các đoàn chuyên gia quân sự Việt Nam giúp nhân dân Campuchia hồi sinh, góp phần giữ vững thành quả cách mạng.
Tháng 12.1986, đồng chí làm Tổng Tham mưu trưởng QĐND Việt Nam và đến tháng 2.1987 giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Trên cương vị là người lãnh đạo, chỉ huy cao nhất của quân đội, đồng chí đã cùng Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ Quốc phòng tập trung xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân và nền quốc phòng toàn dân, tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh của đất nước. Cụ thể, đồng chí đã tham mưu cho Bộ Chính trị và lãnh đạo, chỉ đạo điều chỉnh bố trí chiến lược, tổ chức, biên chế, xây dựng quân đội vững mạnh, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, giải quyết vấn đề biên giới, tăng cường phòng thủ biển... Đặc biệt, đồng chí đã chỉ đạo bộ đội hải quân tăng cường phòng thủ, mở rộng trú đóng trên các đảo đá chìm, giữ vững chủ quyền biển, đảo trên quần đảo Trường Sa và thềm lục địa phía Nam. Với tầm nhìn chiến lược, đồng chí đã ký nhiều mệnh lệnh về việc bảo vệ quần đảo Trường Sa, trên cơ sở đó, từ tháng 6.1989 đến tháng 11.1990, Quân chủng Hải quân đã khắc phục khó khăn, duy trì sự có mặt của Việt Nam trên thềm lục địa thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam, phù hợp với Công ước của Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982.
Luôn giữ vững lập trường và đặt lợi ích của dân tộc lên trên hết, trong lĩnh vực chính trị, ngoại giao, xử lý và giải quyết các mối quan hệ quốc tế, quán triệt sâu sắc lời dạy “Dĩ bất biến ứng vạn biến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng chí luôn tích cực nghiên cứu cách thức, phương pháp và bước đi để thúc đẩy tiến trình bình thường hóa quan hệ với một số nước, một số đối tác, góp phần đặt nền móng cho chính sách đổi mới, mở cửa và hội nhập của Đảng, Nhà nước. Với tư duy sắc sảo của mình, đồng chí được Bộ Chính trị giao trọng trách thăm dò và trực tiếp tiến hành nhiều công việc hệ trọng, xúc tiến bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ, Trung Quốc, từng bước đưa đất nước gia nhập ASEAN và thiết lập quan hệ ngoại giao với nhiều nước trên thế giới, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Tháng 9.1992, tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa IX, đồng chí được bầu làm Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhiệm kỳ 1992 - 1997. Đây là giai đoạn Việt Nam triển khai toàn diện công cuộc đổi mới với nỗ lực cao của toàn Đảng, toàn dân.
Là một trong những nhà lãnh đạo xuất sắc của đất nước thời kỳ đổi mới, trước những biến động phức tạp của tình hình quốc tế và khu vực, trên cương vị người đứng đầu Nhà nước, đồng chí đã thực hiện và triển khai một cách thận trọng, nghiêm túc, nhưng cũng hết sức tích cực chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa của Việt Nam, góp phần làm cho bạn bè quốc tế hiểu rõ hơn đất nước và con người Việt Nam; hiểu rõ chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam kiên trì đường lối đối ngoại rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa trên nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình, tôn trọng độc lập, chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau và cùng có lợi; góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, tạo môi trường hòa bình, ổn định để thúc đẩy sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới...
đồng chí Lê Đức Anh đã trọn đời phấn đấu, cống hiến cho sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và nhân dân ta. Đồng chí được Đảng, Nhà nước trao tặng nhiều phần thưởng cao quý: Huân chương Sao Vàng, Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Quân công hạng Nhất, Huân chương Chiến công hạng Nhất, Huân chương Chiến thắng hạng Nhất, Huy hiệu 80 năm tuổi Đảng và nhiều huân chương, huy chương cao quý khác của Việt Nam và quốc tế.
Kỷ niệm 100 năm ngày sinh đồng chí Lê Đức Anh là dịp để chúng ta ôn lại, tưởng nhớ, tôn vinh và tri ân những cống hiến to lớn của đồng chí đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng, dân tộc. Đồng thời, tuyên truyền, giáo dục cán bộ, chiến sĩ và nhân dân, nhất là thế hệ trẻ học tập, rèn luyện theo tấm gương đạo đức cách mạng của đồng chí; nêu cao ý chí tự lực, tự cường, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, đoàn kết xây dựng quê hương, đất nước ngày càng văn minh, giàu đẹp và bảo vệ vững chắc Tổ quốc thân yêu của chúng ta.
HOÀNG HÀ
(tổng hợp)