(Baoquangngai.vn)- Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu", là một mốc son chói lọi của dân tộc Việt Nam trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, vì độc lập tự do trong thế kỷ 20. Chiến thắng vang dội đó đã để lại nhiều bài học sâu sắc, hiện vẫn còn nguyên giá trị đối với sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ phát triển và hội nhập.
“Đánh chắc, tiến chắc”
Trong những năm từ 1947 - 1953, quân và dân ta liên tiếp giành nhiều thắng lợi quan trọng trong các chiến dịch Việt Bắc-Thu Đông năm 1947, chiến dịch Biên giới năm 1950... làm cho cục diện chiến tranh ở Việt Nam và Đông Dương ngày càng chuyển biến có lợi cho ta, tạo ra thế bất lợi đối với thực dân Pháp.
Để cứu vãn tình thế, thực dân Pháp tập trung xây dựng Điện Biên Phủ thành tập đoàn cứ điểm mạnh nhằm thu hút, làm tiêu hao quân chủ lực của ta, đồng thời khống chế toàn bộ vùng Tây Bắc nước ta và Thượng Lào. Thực dân Pháp bố trí lực lượng ở Điện Biên Phủ lúc cao nhất lên đến 16.200 quân và nhiều vũ khí, phương tiện hiện đại tại 49 cứ điểm, với 3 phân khu; đồng thời cho rằng cứ điểm Điện Biên Phủ là một pháo đài "bất khả xâm phạm".
Trước tình hình đó, tháng 9/1953, Bộ Chính trị, Trung ương Đảng họp, phân tích cục diện chiến trường và quyết định mở cuộc tiến công chiến lược Đông-Xuân từ năm 1953-1954 và hình thành 5 đòn tấn công nhằm tiêu diệt sinh lực cũng như buộc địch phải phân tán lực lượng. Trong đó, mặt trận Tây Nguyên đãphối hợp rất đắc lực với chiến trường chính Điện BiênPhủ. Tướng Nguyễn Chánh đã chỉ huy chiến dịch Tây Nguyên giải phóng Kon Tum, đánh thắng trận An Khê, đập tan cuộc hành quân Atlante của tướng chỉ huy quân viễn chinh Pháp trên chiến trường Tây Nguyên và là Tư lệnh chiến dịch Atlante là De Beaufort.
Đến ngày 6/12/1953, Bộ Chính trị họp, quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp được cử làm Bí thư Đảng ủy kiêm Tư lệnh Bộ Chỉ huy Chiến dịch. Lúc bấy giờ, cán bộ, chiến sĩ đều hăng hái triển khai kế hoạch “đánh nhanh, giải quyết nhanh”. Tuy nhiên, địch tăng cường lực lượng, phương tiện và thay đổi trận địa cũng như hệ thống phòng ngự… Sau khi nhận được ý kiến của đại tá Phạm Kiệt, một người con của quê hương Quảng Ngãi đề nghị xem xét lại cách đánh; đồng thời cùng với những tin tức trinh sát từ các mặt trận gửi về, tại cuộc họp khẩn của Đảng ủy Mặt trận, Đại tướng Võ Nguyên Giáp quyết định chuyển phương châm tác chiến từ "đánh nhanh, giải quyết nhanh" sang phương châm tác chiến và kế hoạch mới "đánh chắc, tiến chắc".
Chiến thắng vang dội
Điện Biên Phủ có địa hình rừng núi hiểm trở, việc di chuyển khó khăn. Để bảo đảm các điều kiện cho chiến dịch thắng lợi trọn vẹn, Bộ Chính trị, Trung ương Đảng và Bác Hồ đã tập trung lãnh đạo, đẩy mạnh cuộc vận động nhân dân các địa phương, phát huy được sức mạnh của cả hậu phương và tiền tuyến nhằm cung cấp đầy đủ các điều kiện về hậu cần, kỹ thuật, phương tiện cho bộ đội tham gia trận quyết chiến lịch sử này.
Nghị quyết của Bộ Chính trị và Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được quân dân cả nước tích cực hưởng ứng sôi nổi, đồng lòng, dốc sức cho chiến dịch. Bên cạnh 55 nghìn quân chủ lực, còn có hơn 10 vạn người gồm lực lượng dân công, thanh niên xung phong và các lực lượng khác đã tham gia chiến dịch trên tinh thần tất cả tập trung cho Chiến dịch Điện Biên Phủ. Trong 210 ngày, từ tháng 11/1953 đến tháng 5/1954, có hơn 261 nghìn dân công hỏa tuyến, trong đó có 18.200 cán bộ, đội viên, thanh niên xung phong trực tiếp tham gia, làm mới 89km đường và sữa chữa hơn 500km đường giao thông... Quân và dân các địa phương đã huy động 22 nghìn lượt xe đạp thồ, 11.800 thuyền bè, 1.800 mảng nứa, 756 xe thô sơ, 914 con ngựa thồ, xe trâu, một đội ô tô 628 chiếc... vận chuyển 30.759 tấn lương thực, thực phẩm, vũ khí, quân dụng... phục vụ chiến dịch.
Quân và dân ta trải qua 56 ngày đêm "khoét núi, ngủ hầm...". Đảng ủy, Bộ Chỉ huy chiến dịch đã tập trung lãnh đạo, chỉ huy với quyết tâm cao độ nhất, phương châm tác chiến phù hợp, thông minh, sáng tạo, với sự chuẩn bị kỹ lưỡng, chu đáo. Với 3 đợt tấn công bất ngờ, sấm sét, thực hiện phương châm tác chiến “đánh chắc, tiến chắc”, các lực lượng của quân đội ta đã đập tan tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, một pháo đài mà thực dân Pháp khẳng định là “không thể công phá” và "bất khả xâm phạm". Kết quả, bắt sống tướng De Castries (Đờ-cát-xtơ-ri), loại khỏi vòng chiến đấu hơn 16 nghìn tên địch, tịch thu toàn bộ vũ khí, quân trang, quân dụng, phương tiện của địch và giành thắng lợi vang dội.
Sự lãnh đạo tài tình của Đảng
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu" đã kết thúc 9 năm trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân ta, buộc thực dân Pháp phải ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ, chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương.
Trước tiên, phải khẳng định sự lãnh đạo tài tình, sáng tạo của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quy tụ, tập hợp, khơi dậy và phát huy cao độ lòng yêu nước của nhân dân ta; làm cho nhân dân thấy rõ lợi ích sống còn của dân tộc mà đoàn kết chiến đấu chống thực dân xâm lược, giành độc lập tự do, tạo nên sức mạnh vô địch của cuộc chiến tranh nhân dân và chính nghĩa trong Chiến dịch Điện Biên Phủ.
Chiến thắng Điện Biên Phủ vĩ đại là trận quyết chiến chiến lược, đập tan tập đoàn cứ điểm mạnh nhất của thực dân Pháp ở Đông Dương, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến trường kỳ, anh dũng của quân và dân ta, chấm dứt ách xâm lược của thực dân Pháp gần 100 năm trên đất nước ta, giải phóng miền Bắc, đưa miền Bắc đi lên chủ nghĩa xã hội, làm cơ sở vững chắc cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Đồng thời, còn là bài học về tinh thần đoàn kết, sự kết tinh trí tuệ, bản lĩnh kiên cường và truyền thống yêu nước, bất khuất của toàn thể dân tộc Việt Nam, bài học về nghệ thuật quân sự; về phát huy, hiệu triệu sức mạnh của toàn dân tộc và sự ủng hộ của nhân dân tiến bộ trên thế giới, nhất là 2 nước Lào và Campuchia. Đây là bài học sâu sắc về thế trận lòng dân, sức mạnh của cuộc chiến tranh nhân dân để làm nên một trong những chiến thắng vĩ đại nhất trong thế kỷ 20. Tinh thần chiến thắng Điện Biên Phủ đã và đang ngời sáng, tiếp tục là động lực, nguồn cổ vũ to lớn đối với nhân dân ta trên đường đổi mới, phát triển và hội nhập.
Hai vị tướng tài năng người Quảng Ngãi
Điều đặc biệt là có hai vị tướng tài năng người Quảng Ngãi đã trực tiếp đóng góp trí tuệ và công sức vào thành quả chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ. Từ năm 1951, tướng Nguyễn Chánh giữ trọng trách vừa là Bí thư Liên khu ủy, vừa là Chính ủy kiêm Tư lệnh Liên khu 5. Tướng Nguyễn Chánh là một cán bộ có tầm nhìn chiến lược, một nhà chỉ huy thao lược, có tài năng tổ chức, đặc biệt là phối hợp đắc lực với chiến trường chính Điện BiênPhủ. Tướng Nguyễn Chánh đã chỉ huy chiến dịch Tây Nguyên giải phóng Kon Tum, đánh thắng trận An Khê, đập tan cuộc hành quân Atlante của tướng chỉ huy quân viễn chinh Pháp trên chiến trường Tây Nguyên và là Tư lệnh chiến dịch Atlante là De Beaufort. Chiến thắng này góp phần cùng với thắng lợi trong trận Điện BiênPhủ quyết định, buộc thực dân Pháp phải rút khỏi Đông Dương.
Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, giữa lúc tình hình chiến trường vô cùng căng thẳng, khẩn trương, quân và dân ta háo hức chờ lệnh chỉ huy nổ súng tấn công, thì cũng không ít người tỏ ra lo ngại vì lực lượng pháo, phòng không của ta còn quá mỏng và không thiện chiến, trong khi quân Pháp tập trung toàn bộ máy bay ở chiến trường Đông Dương về cứ điểm Điện Biên Phủ. Với vai trò là đặc phái viên của Đại tướng, Tổng Tư lệnh và phụ trách công tác bảo vệ của Mặt trận, Đại tá Phạm Kiệt suy nghĩ, trăn trở, là người duy nhất mạnh dạn đề nghị Đại tướng Võ Nguyên Giáp xem xét lại kế hoạch "đánh nhanh, giải quyết nhanh".
Ý kiến đề xuất của Đại tá Phạm Kiệt cùng với những tin tức trinh sát từ các mặt trận gửi về đã cung cấp nhiều căn cứ quan trọng để Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp đề xuất với Đảng ủy quyết định thay đổi phương châm tác chiến cũng như kế hoạch từ phương án "đánh nhanh, giải quyết nhanh" sang "đánh chắc, thắng chắc", nhằm bảo đảm cho quân, dân ta chắc thắng ở Điện Biên Phủ.
TUẤN ANH