Viết báo ở chiến trường

09:06, 21/06/2018
.

Thanh Thảo


(Baoquangngai.vn)- Khi xuống ở những địa hình ven lộ Bốn-Cai Lậy-Mỹ Tho, gần nửa năm trời tôi chỉ viết được 3 bài báo. Các anh lãnh đạo Binh vận hồi đó cũng muốn cho tôi đi thực tế là chính, chưa yêu cầu phải viết “ngay và luôn” nhiều bài báo. Vì vậy, tôi có nhiều thì giờ để… nhậu, với đủ các thành phần nhân dân, du kích và quân đội.

Hóa ra, đó là cách đi thực tế rất tốt. sau này, khi về lại chiến khu, tôi đã viết được khá nhiều bài báo, làm được nhiều bài thơ sau khi đi thực tế… nhậu kiểu này. Nhậu tưng bừng thì rất nhiều, nhưng nhậu… "sâu lắng” cũng có không ít.

Đó là những đêm tôi được ngồi hầu rượu và hầu chuyện các bậc bô lão trong xóm ấp. Một ngọn đèn lu, dưới trang thờ ngoài sân, tôi và bác chủ nhà đối ẩm. Ve rượu bằng sành hay sứ cổ, hai chén hạt mít, không mồi nhậu, hai bác cháu chuyện trò nhỏ nhẹ. Bác chủ nhà tóc búi củ hành, cử chỉ đĩnh đạc của một người từng theo Nho học, nói những câu nửa Nôm nửa Hán, mình phải vừa nghe vừa… đoán, chứ đâu biết chữ Nho.

Chuyện rất lan man, dài như cuộc rượu giữa hai người, một già một trẻ. Có thể nói, đó là những khoảnh khắc hạnh phúc nhất của tôi, khi được nghe rất nhiều chuyện xưa có nay có, được nhìn ngắm thật gần hình ảnh một người "dân mộ nghĩa” Nam Bộ, một người khai mở đất phương Nam. Tôi đã tích lũy được bao nhiêu điều từ những cuộc nhậu không ồn ào như thế.

Tôi luôn rạch ròi giữa thơ và báo. Nhưng những cảm nhận, những xúc động của người làm thơ đã ảnh hưởng rất nhiều tới cách viết những bài báo của tôi. Với tôi, những bài báo vẫn có thể đầy xúc cảm. Hóa ra, với “kênh” tuyên truyền binh vận, cách viết ấy lại rất đắc địa. Sự thật lòng, những tình cảm nhiều khi mộc mạc nhưng thấm thía, là những gì làm nên sức thu hút của những bài báo thuộc đề tài này. Nhất là khi tôi viết về đề tài hòa giải hòa hợp dân tộc. Tôi đã viết bằng tất cả tình cảm của mình.

Làm “báo nói”-viết cho Đài phát thanh-nhưng tôi không hề nghĩ những bài báo của mình chỉ “nghe qua rồi bỏ”. Viết chỉ để phục vụ, không một đồng nhuận bút, nhưng vẫn viết bằng tất cả tâm sức mình. Nói như lão nhà văn Trang Thế Hy, tôi là “thằng cha giỏi viết nhật trình”. Nhật trình là báo ngày, xem qua (hay nghe qua) rồi bỏ, nhưng không bao giờ viết cho xong chuyện. Chính sự toàn tâm ấy khiến mình viết vẫn nhanh, hoàn thành bài báo đúng hạn theo yêu cầu, mà vẫn đạt chất lượng cao nhất có thể.

Viết được có ba bài báo khi ở chiến trường Mỹ Tho, nhưng có hai bài được in ở báo “Ấp Bắc”, với tôi thế là hoàn thành nhiệm vụ. Những năm đó báo Ấp Bắc chỉ ra mỗi năm được vài ba số, mà như thế là quá giỏi, trong điều kiện chiến tranh ác liệt, toà soạn lưu động phải chạy càn hàng ngày, phải tham gia chiến đấu như những người du kích vùng ven lộ Bốn.

Sau khi in ở báo Ấp Bắc, những bài báo ấy của tôi lại được báo vụ tê-lê-tip lên Ban Binh Vận, rồi được chuyển ra Hà Nội cũng bằng tê-lê-tip, được đọc trên hai đài phát thanh, Giải Phóng và Tiếng nói Việt Nam, thế là xong việc. Đâu phải như bây giờ, viết một bài có thể bấm một phát đi khắp toàn cầu. Nhưng hồi đó, phải rất phục các anh chị báo vụ. Họ gửi bài bằng tê-lê-tip, nhưng rất ít khi sai sót. “Chuẩn không cần chỉnh” là những bài báo được chuyển từ chiến khu ra Hà Nội.

Tác giả chỉ cần mở radio là nghe được bài viết của mình, không sai một chữ. Thú thật, nhiều đêm nằm trong rừng nghe những bài viết của mình phát trên đài, cũng lâng lâng xúc động. Làm báo, không có nhuận bút, thì cũng có cái gì để bù vào, ít nhất động viên tinh thần mình. Tôi đã thành một nhà báo chuyên nghiệp như thế, suốt năm năm ở chiến trường, cực khổ đủ điều, ăn nhậu đủ kiểu, chiến tranh các thứ, bây giờ nghĩ lại, thấy cũng vui vui.

Nhưng với hồi đó, thì cũng không dễ vui như vậy.

Còn nhớ, ngày tôi thường trú bên Đài Giải phóng, cứ buổi trưa là tôi với Lê Điệp (nhà văn) lại kéo nhau ra suối câu cá. Con suối này tương đối sâu, nên cá khá nhiều, chủ yếu là cá đỏ đuôi. Chúng tôi kiên trì ngồi buông cần, không phải câu cá để thư giãn, hay để nghĩ chuyện lớn, mà chăm chắm câu kiếm cá cho bữa cơm chiều. Dạo đó thức ăn nhà bếp quá hẻo, tôi với Lê Điệp mặt thằng nào cũng xanh lét do sốt rét và ăn thiếu chất, nên câu cá cải thiện là "việc cần làm ngay".

Thường ngồi suốt buổi trưa như thế, mỗi thằng cũng câu được dăm con cá đỏ đuôi, loại cá bé tẹo bằng hai, ba ngón tay, nhưng như thế là tươm lắm rồi, có thức ăn cho bữa chiều rồi. Thậm chí, hơn cả thức ăn, đó có thể là mồi nhậu, nếu có tiền mua rượu "đồng bào phum sóc". Muốn có tiền, tôi với Lê Điệp phải lên phòng y tế của Đài xin thuốc sốt rét, và «thật thà khai báo» là bị suy kiệt trầm trọng.

Chị y sĩ khá dễ tính, cho thuốc lại còn kèm theo đơn xét bồi dưỡng. Tôi với Lê Điệp mỗi thằng được 100 riel (tiền Campuchia). Quá tốt! 200 riel này có thể mua được hơn 2 lít "rượu đồng bào". Chúng tôi tiêu từ từ, mỗi lần ra phum sóc lại mua nửa lít. Cứ thế, mỗi bữa chiều chúng tôi kêu thêm vài thằng bạn nữa, mồi nhậu là cá câu được, rượu « đồng bào » nửa lít, đủ lai rai rồi.

Nhậu xong tối xuống hầm ngủ, tránh bom B52. Thời gian ở Đài, tôi với Lê Điệp hay chơi với anh Hải-Nguyễn Ngọc Hải-anh này vốn là cựu sinh viên khoa Văn Tổng hợp Hà Nội, như thế là đồng môn với tôi, dù anh Hải học trên tôi 4,5 lớp gì đó. Học xong, anh vừa về một cơ quan ở Hà Nội thì được động viên đi bộ đội, vào chiến trường, làm lính trơn.

Anh vào B2 khá sớm, công tác ở phòng Tuyên truyền của sư đoàn, cũng đã lăn lộn qua nhiều chiến dịch, cuối cùng, về Đài Giải phóng làm biên tập viên Ban Văn nghệ. Tôi với Lê Điệp hay chơi với anh Hải vì ở « nhà sàn » của anh (trong rừng) hay có thứ này thứ kia có thể lót lòng cho qua cơn đói. Anh Hải thích chơi với chúng tôi vì hai thằng tôi, để có gì ăn, rất chịu nghe chuyện của anh, mà anh thì chỉ có mỗi nhu cầu « trút bầu tâm sự » rất linh tinh. Kệ.

Còn nhớ, những món ăn được ở nhà anh Hải thường rất… kinh. Chẳng hạn món cơm rang. Cơm ăn thừa anh Hải tích trữ không biết qua bao nhiêu ngày, còn mỡ để chiên cơm thì "lý lịch" hết sức tù mù, chắc chắn là không được vệ sinh cho lắm. Anh Hải có thói quen nằm trên nhà sàn một mình, radio mở rất to, đài Giải phóng hay đài Hà Nội gì đó, anh cứ nằm, một tay cầm đũa liên tục khuấy đảo chảo cơm rang, mắt lơ mơ chả biết thức hay ngủ, còn cái radio thì nó kêu cho vui thôi chứ anh cũng chả nghe.

Những lúc đó, tôi với Lê Điệp nhẹ nhàng đến với anh, và anh Hải bật dậy như một người lính…choàng tỉnh: "Cơm rang nhé!" Vâng, thì cơm rang. Ba chúng tôi lại hì hụi với nhau, mỗi người một bát cơm rang made in Ngọc Hải ». Lúc đói thì ăn gì chả ngon ! Chuyện linh tinh như tép nhảy. Thường những lúc ấy, đột ngột anh Hải bảo: "Các cậu đưa tớ mượn khẩu K54!" Hỏi anh mượn súng làm gì, anh Hải nói: "Các cậu ở nhà, mình ra phum sóc đồng bào xem có rượu mua vài xị, anh em mình lai rai".

Súng ngắn thì có ngay, nhưng tôi với Lê Điệp vẫn hỏi thêm: "Đi mua rượu chứ có phải đi chiến trường đâu mà ông đeo súng ra phum?" Anh Hải cười cười khá bẽn lẽn: "Mình đeo súng ngắn để bà con bán rượu tốt hơn và rẻ hơn". Ra thế! Thêm một tính năng mới của súng ngắn K54 mà anh Hải dạy chúng tôi: đeo súng ngắn đi « shopping » thì mua được rượu tốt hơn, rẻ hơn. Thực ra, chúng tôi biết anh Hải mượn súng ngắn đeo cho… oai, nhằm "giải quyết khâu oai" là chính. Nhìn anh nai nịt quân phục, mũ tai bèo, thắt lưng súng ngắn, "độc hành" ra phum sóc… mua rượu, thật không nhịn được cười.

 


.