Đường Hồ Chí Minh trên biển: Con đường huyền thoại

08:10, 13/10/2016
.

(Baoquangngai.vn)- Sau khi ký Hiệp định Gine vơ 1954, nước ta tạm thời chia làm hai miền. Ở miền Nam đế quốc Mỹ và ngụy quyền Sài Gòn thẳng tay đàn áp những người yêu nước, phong trào kháng chiến lúc này như trong đêm tối mịt mùng nhưng ngày đêm vẫn hướng về Hà Nội- Trái tim Tổ quốc mong chờ sự chi viện.

TIN LIÊN QUAN

Như nắng hạn gặp mưa, BCH TƯ Đảng ra Nghị quyết 15 đề ra 2 chiến lược cách mạng, miền Bắc đi lên CNXH, ở miền Nam tiếp tục hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, giải phóng miền nam, thống nhất nước nhà. Thực hiện quyêt tâm của Đảng, Bộ Chính trị ra nghị quyết “Mở đường giao thông chiến lược để tiếp tế cho cách mạng miền Nam”.

Tháng 5.1959  Quân uỷ TƯ - Bộ Quốc phòng quyết định thành lập Tiểu đoàn 604 mở đường Trường Sơn, tiền thân của Đoàn 559, đường Hồ Chí Minh lịch sử sau này. Ở miền Nam từ khi có ánh sáng nghị quyết 15 của Đảng, năm 1960 phong trào đồng khởi dấy lên mạnh mẽ từ đồng bằng Nam Bộ đến một số tỉnh Liên khu 5 làm cho chính quyền Mỹ - ngụy thất bại ở nhiều nơi.
 

“Tàu không số” vượt biển ra Bắc chở vũ khí chi viện cho chiến trường miền Nam đánh Mỹ (ảnh tư liệu).
“Tàu không số” vượt biển ra Bắc chở vũ khí chi viện cho chiến trường miền Nam đánh Mỹ (ảnh tư liệu).

Vùng giải phóng được mở ra, Mặt trân dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời, lực lượng bán vũ trang, vũ trang phát triển nhanh chóng, yêu cầu phải có vũ khí trang bị để đánh giặc, đặt ra cấp bách. Trong lúc này nhiệm vụ tiếp tế bằng đường bộ trên đường Trường Sơn mới chỉ đưa được một ít vũ khí gọn nhẹ vào đến Liên khu 5, còn các vùng Nam Trung Bộ và Tây Nam Bộ là hoàn toàn chưa tiếp tế được.

Vì vậy đầu năm 1961 Bác Hồ, Bộ Chính trị chủ trương chi viện cho chiến trường miền Nam bằng đường biển. Trung ương chỉ thị cho các tỉnh ven biển miền Nam tìm cách đưa thuyền ra miền Bắc nhận vũ khí và nghiên cứu tình hình trên biển.

Thực hiện chỉ thị của Bác và BCT, Quân ủy TƯ và Bộ Quốc phòng ra quyết định thành lập Tiểu đoàn 603 vận tải đường biển, lúc đầu với tên gọi “Tập đoàn đánh cá sông Gianh” (Tiền thân của đoàn 759, đoàn tàu không số sau này).

Lúc đầu đoàn 603 đặt cơ sở tại thôn Thanh Khê, xã Thanh Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình. Cán bộ chiến sĩ hầu hết là số anh em miền Nam tập kết ra Bắc được điều động về. Nhiệm vụ trước mắt là đóng thuyền gỗ, mua ngư, lưới cụ, trang bị cần thiết, ngày ngày ra khơi đánh cá, rèn luyện làm quen sóng gió, hôm  nào ở bến thì học tập chính trị, khí tượng thủy văn, học bao gói che đậy hàng hóa sao cho không bị ướt, bị han rỉ....

Nhiệm vụ tuyệt mật nhưng anh em đoán rằng mình sắp được vào Nam nên rất hăng say phấn khởi. Bởi vì bao năm tháng xa quê hương, sống trên miền Bắc, mặc dù được Đảng, Nhà nước, Quân đội và bà con miền Bắc hết sức quan tâm nhưng vẫn tâm trạng “ngày Bắc, đêm Nam” nên luôn sẵn sàng chờ lệnh.

Và niềm mơ ước đã đến, đúng vào đêm 30 tết ngày 16.1.1961 gió mùa đông bắc khá mạnh, được lệnh Quân ủy TƯ, chiếc thuyền gỗ đầu tiên chở 5 tấn vũ khí rời cảng Sông Gianh bí mật đưa vũ khí vào Liên khu 5. Biển động rất mạnh sau mấy ngày vật lộn với sóng gió thuyền đến được vùng biển Đà Nẵng, gặp cơn lốc mạnh làm chìm tàu, một số đồng chí hy sinh, còn lại bơi tản mát vào bờ, một số bị địch bắt nhưng chúng không khai thác được gì nên bí mật của con đường chưa bị lộ. 

Thực hiện chỉ thị của TƯ giữa năm 1961 các tỉnh Bà Rịa, Bến Tre, Trà Vinh, Rạch Giá, Cà Mau lần lượt đưa được 5 thuyền gỗ vượt biển ra Bắc để nhận vũ khí. Nhiều thuyền hành trình vô cùng vất vả phải qua tận Hồng Kông, Hải Nam rồi mới về miền Bắc.

Sau 5 thuyền vượt biển từ Nam ra Bắc thành công, để kịp thời chi viện cho miền Nam, ngày 23 tháng 10 năm 1961  Bộ Quốc phòng ra quyết định thành lập Đoàn 759 vận tải biển từ cơ sở Tiểu đoàn 603 và 20 cán bộ miền Nam vừa vượt biển ra Bắc.

Nhiệm vụ tập trung chủ yếu mua sắm tàu thuyền phương tiện, trang bị, huấn luyện chính trị chuyên môn, sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ vận tải chi viện cho chiến trường miền Nam. Phương châm: Hết sức khẩn trương; Tuyệt đối giữ bí mật; Hoạt động trong vùng địch kiểm soát nên phải có tinh thần độc lập tác chiến rất cao; Thực hiện lâu dài cho đến ngày thống nhất đất nước.

Thời gian đầu đoàn ở Hà Nội để được sự chỉ đạo trực tiếp của Quân ủy TƯ, Bộ Quốc phòng mà đặc trách là đồng chí Thứ trưởng, Phó tổng tham mưu trưởng QĐND Việt Nam Trần Văn Trà. Các đội đều ở riêng biệt, độc lập từng nhà, mọi sinh hoạt đã có người phục vụ “Nội bất xuất, ngoại bất nhập”.

Khi nhận nhiệm vụ chỉ có đội trưởng - chính trị viên đi gặp cấp trên, còn anh em chỉ vận hành theo mệnh lệnh của đội trưởng. Sau một thời gian chuẩn bị, đêm mùng 8 tháng 4 năm 1962, chiếc thuyền gỗ do Bông Văn Dĩa làm thuyền trưởng vượt biển vào Nam làm nhiệm vụ trinh sát mở đường.

Sau 10 ngày vất cả căng thằng, đến 18/4 đã đến bến Gềnh Hào Cà Mau an toàn. Sau khi chuyến thuyền trinh sát mở đường thắng lợi, Đoàn 759 liên tiếp tổ chức các thuyền của Đội 1 (gọi là Phương Đông I) rồi thuyền của Đội 2 (Phương Đông II), thuyền của Đội 4 (Phương Đông IV) và Phương Đông V... lần lượt từ các bến trên miền Bắc bí mật vượt biển mang theo hàng chục tấn vũ khí vào chi viện cho miền Tây Nam Bộ.

Trong điều kiện đi độc lập dài ngày trên biển, đối phó với sóng to gió bão bất ngờ và tàu địch dò xét, cán bộ chiến sĩ vẫn bình tĩnh xử lý khôn khéo các tình huống, quyết tâm đưa vũ khí vào Nam. Có chuyến anh em phải tự tìm bến bãi, có lần phải đi hàng tháng trời nhưng vừa về là có lệnh đi tiếp anh em vẫn sẵn sàng.

Đầu năm 1964 tình hình cách mạng miền Nam phát triển, Quân ủy TƯ,  Bô Quốc phòng giao nhiệm vụ vận tải chi viện đường biển cho Bộ Tư lệnh Hải quân đảm nhiệm và quyết định đổi tên Đoàn 759 thành đoàn 125 vận tải biển.

Lực lượng tàu thuyền lúc này được tăng cường, nhiều anh em quê miền Bắc được lựa chọn về Đoàn để làm nhiệm vụ đặc biệt. Để chỉ đạo trực tiếp, kịp thời, Đoàn chuyển về cảng Bến Động, Thủy Nguyên-Hải Phòng.

Thời gian này hàng chục con tàu không số được đóng mới to hơn, sức chở từ 50 tấn đến 100 tấn, tốc độ nhanh, sức chịu đựng sóng gió tốt, có thể đi biển xa đến hải phận quốc tế. Vì vậy từ năm 1962 đến 1965 những con tàu không số đã bí mật vận chuyển được 90 lượt tàu, đưa được 4.000 tấn vũ khí, đạn dược, thuốc men và nhiều cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quân đội vào chi viện cho chiến trường, góp phần cùng quân và dân miền Nam đánh bại chiến lược chiến tranh đặc biệt của Mỹ ngụy.

Cuối năm1964 đầu năm 1965 tình hình trở nên bất lợi. Đế quốc Mỹ tiến hành chiến tranh cục bộ, mở rộng đánh phá ra miền Bắc làm cho con đường vận tải bí mật của những con tàu không số của ta hết sức khó khăn.

Đặc biệt khi chiếc tàu 134 do thuyền trưởng Lê Văn Thêm, chính trị viên Phan Văn Bảng chỉ huy bất ngờ luồn lách đưa 100 tấn vũ khí vào vịnh Vũng Rô tỉnh Phú Yên. Sau khi bốc xếp ngụy trang hàng hóa xong, tàu chưa kịp quay ra thì bị địch phát hiện, vây ráp đánh phá.

Anh em vừa chiến đấu, vừa đánh lạc hướng, cất giấu hàng hóa rồi hủy tàu, rút lên bờ về căn cứ, nhưng bí mật của con đường vận tải đường biển của tàu không số đã bị lộ. Do đó Hạm đội Mỹ đã báo động cho tất cả các lực lượng tàu của chúng triển khai kế hoạch ngăn chặn và điều động thêm tàu chiến, lập thêm các Duyên đoàn hải quân ngụy, lắp đặt thêm các trạm rađa đối hải, tăng thêm máy bay trinh sát, tạo thành một thế trận phong tỏa dày đặc từ vùng biển giới tuyến 17 đến Cà Mau, từ vùng tiếp giáp hải phận quốc tế đến các cửa vịnh sông ngòi, kênh rạch miền Nam. 

Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Quân ủy TƯ “Chỉ cần một nửa số chuyến đi vào được bến là thắng lợi...” , vì một con tàu với 10 người, thời gian 20 ngày là đưa được mấy chục tấn vũ khí vào chiến trường bằng 1.500 người gùi cõng trên đường Trường Sơn 5 tháng.

Vì vậy từ năm 1965 đến năm 1972 những con tàu không số vẫn tiếp tục vượt biển làm nhiệm vụ vận chuyển chi viện cho miền Nam trong điều kiện hết sức khó khăn, ác liệt, hiểm nguy. Gần như thời gian này qua giới tuyến 17 là gặp địch nhưng anh em luôn mưu trí, dũng cảm, tìm cách lừa địch để vượt qua.

Nhiều chuyến đi phải quay lại; nhiều chuyến phải qua nước bạn, ra hải phận quốc tế đợi thời cơ hàng tháng trời. Có lần tàu ta đã vào gần bến thì bị địch phát hiện, tập trung lực lượng bao vây bắt sống, anh em quyết tâm đánh trả phá vòng vây, bảo vệ tàu và vũ khí, thà hy sinh quyết không để người và vũ khí rơi vào tay giặc.

Đặc biệt có lần tàu ta bị địch vây ráp quá đông, cuộc chiến đấu không cân sức. Anh em đã anh dũng chiến đấu đến người cuối cùng rồi lao thẳng tàu ta vào tàu địch, anh dũng điểm hỏa bộc phá hàng trăm ký để tiêu diệt tàu địch và anh dũng hy sinh, vĩnh viễn nằm lại dưới lòng biển mẹ thân yêu.

Có một thời gian Mỹ - ngụy phong tỏa gắt gao, ta gặp nhiều tổn thất. Bộ Tư lệnh Hải quân xin ý kiến Quân ủy TƯ cho phép thay đổi phương thức vận chuyển từ bí mật sang bán công khai và hợp pháp. Được đại tướng Võ Nguyên Giáp đồng ý.

Những cán bộ chiến sĩ tàu không số quê miền Nam, có kinh nghiệm được chuyển sang sử dụng những chiếc thuyền gỗ đóng ở miền Bắc nhưng theo kiểu thuyền đánh cá của ngư dân Nam Bộ; gắn biển đăng ký các tỉnh miền trong. Bí mật cất giấu vũ khí, giả làm ngư thuyền hoặc thương thuyền, vượt ra hải phận quốc tế, rồi trà trộn vào ngư trường đánh bắt của ngư dân miền trong, chờ lúc thuận lợi cập bến đưa vũ khí vào vùng giải phóng.

Nhờ vậy mà từ năm 1965 đến 1972 ta tổ chức được hàng trăm lượt tàu vận chuyển được hàng chục ngàn tấn vũ khí đạn dược và nhiều cán bộ, chiến sĩ trong đó có một số cán bộ lãnh đạo cao cấp của Đảng, Nhà nước, Quân đội vào Nam, ra Bắc để lãnh đạo, chỉ đạo cuộc kháng chiến. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử mùa xuân  1975 những con tàu không số tiếp tục nhận mệnh lệnh vận chuyển quân vào chiến trường bằng đường biển.

Đặc biệt nhiều tàu được lệnh tiếp tục vượt biển đưa các đội đặc công của Hải quân và Quân khu 5 ra Cù Lao Thu và quần đảo Trường Sa để phối hợp với toàn chiến dịch lần lượt đánh chiếm, làm chủ hoàn toàn đảo Cù lao Thu và các đảo thuộc quần đảo Trường Sa do hải quân ngụy chiếm giữ, góp phần vào cuộc Tổng tấn công và nổi dậy giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước ngày 30/4/1975.

Có thể nói bao nhiêu chuyến đi là bấy nhiêu câu chuyện thần kỳ về tinh thần mưu trí dũng cảm, về tinh thần vượt khó, sức chịu dựng gian khổ hiểm nguy, sẵn sàng xả thân vì nghĩa lớn. Mỗi chuyến đi, mỗi tên tàu, mỗi bến bãi, mỗi tên người là một chiến công, hàng trăm chuyến đi là hàng trăm sự tích anh hùng đã và sẽ mãi mãi lưu truyền trong lịch sử kháng chiến chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta. Tất cả, tất cả những kỳ tích, chiến công ấy xâu chuỗi lại đã làm nên “Đường Hồ Chí Minh trên biển”, con đường lịch sử, con đường huyền thoại.
                          

 PHAN VĂN CÚC
 


.