Kỷ niệm 40 năm giải phóng miền Nam: Nhìn lại Chiến dịch Tây Nguyên

09:03, 19/03/2015
.

Đã tròn 40 năm trôi qua kể từ Mùa Xuân lịch sử năm 1975. Ôn lại những ngày tháng hào hùng của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc, chúng ta càng thêm tự hào về một trang sử vẻ vang của quân đội nhân dân, của dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng. 

Tư liệu điểm lại những những sự kiện đáng nhớ trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc kể từ khi Chiến dịch Tây Nguyên mở màn (4/3/1975) đến khi Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng (30/4/1975).

* Ngày 4/3/1975: Chiến dịch Tây Nguyên chính thức mở màn

Chiến dịch Tây Nguyên chính thức mở màn bằng việc quân ta tiến công cắt đứt đường 19 - con đường tiếp tế chủ yếu của địch cho Tây Nguyên. Bộ Tư lệnh Chiến dịch Tây Nguyên ra lệnh cho Trung đoàn 95A: Đêm ngày 3 rạng ngày 4 tiến ra cắt đường số 19, trên đoạn phía Đông thị xã Pleiku. 

Từ sáng đến trưa ngày 4/3/1975, Trung đoàn 95A đã tiêu diệt một loạt vị trí địch (trong đó có căn cứ Adun), cắt đứt và làm chủ một đoạn dài 20km trên đường 19 phía đông thị xã Pleiku, thực hiện đúng ý định của Bộ Tư lệnh Chiến dịch.

Cùng ngày, Sư đoàn 3 Quân khu 5 tiến công địch trên đường 19, đoạn từ An Khê đến Bình Khê. Sư đoàn đã tiêu diệt nhiều vị trí như: Cây Rui, Chóp Nón, Hòn Kiềng, Cột Cờ, Truông ối, Che Chẻ, Đồi Đá, chốt Lăng Mai Xuân Thưởng, Điểm cao 309, 334…, tiêu diệt hơn 300 tên của trung đoàn 47 ngụy.

Như vậy, trong ngày mở đầu của Chiến dịch, đường 19 - con đường tiếp tế chủ yếu của địch cho Tây Nguyên đã bị cắt hoàn toàn.

* Ngày 5/3/1975: Quân ta cắt đứt đường 21 (đoạn Chư Cúc) - con đường quan trọng thứ hai nối đồng bằng với Tây Nguyên

Đêm ngày 4 rạng sáng ngày 5/3/1975, Trung đoàn 25 phục kích trên đường 21, tiêu diệt 8 xe trong đoàn xe 15 chiếc của Trung đoàn 45 ngụy từ Pleiku về Buôn Ma Thuột. 7 xe còn lại quay đầu chạy về Pleiku, trong đó có tên đại tá Vũ Thế Quang, sư đoàn phó Sư đoàn 24 của địch. 

Ta đã làm chủ đoạn đường ở phía đông Chư Cúc. Tập đoàn địch phòng ngự ở Tây Nguyên bị cắt rời khỏi đồng bằng Khu 5. Trên đường 14, Sư đoàn 320 của ta đưa Trung đoàn 9 ra phục kích ở đoạn nam cầu Ea Hleo.

Đây là lần đầu tiên trong một chiến dịch, quân đội ta sử dụng tới 2 sư đoàn, 2 trung đoàn bộ binh làm nhiệm vụ đánh cắt giao thông. Sau 2 ngày 4 và 5/3/1975, ta đã cắt đứt 3 đường bộ chủ yếu (đường số 14, 19 và 21) và nghi binh căng kéo địch có hiệu quả; chia cắt Tây Nguyên với đồng bằng Trung Bộ, Nam và Bắc Tây Nguyên; bao vây và cô lập thị xã Buôn Ma Thuột, tạo điều kiện cho các đơn vị hoàn thành công tác chuẩn bị, nổ súng đúng kế hoạch.

* Ngày 6/3/1975: Chuẩn bị chiếm điểm cao Chư Xê

Ngày 6/3/1975: Bộ Tư lệnh Chiến dịch Tây Nguyên nhận định: “Đường số 14, đường số 21 tuy đã xuất hiện một số bộ phận của ta, nhưng chưa có gì buộc địch phải xử trí lớn. Tuy địch có phát hiện được một số chi tiết, nhưng chúng chưa chú ý nhiều. Trong mấy ngày tới, có thể địch chưa có phản ứng gì lớn”. Do vậy, cần “kiên trì, khôn khéo giữ bí mật đến cùng cho trận đánh ở thị xã theo phương án đã định”.

Để tạo điều kiện cho các đơn vị ta ở bắc Buôn Ma Thuột sớm hoàn thành mọi công tác chuẩn bị và cô lập địch, Bộ Tư lệnh Chiến dịch đã lệnh cho Sư đoàn 320 sử dụng một bộ phận lực lượng đánh chiếm điểm cao Chư Xê án ngữ trên đường 14, cách Cấm Ga 15km về phía nam, nhằm kéo Trung đoàn 53 (thiếu) của địch ra đối phó, tạo điều kiện cho các đơn vị đảm nhiệm tiến công trên hướng bắc thị xã sớm hoàn thành công tác chuẩn bị.

Trong khi đó, với Tây Nguyên, Bộ Tổng tham mưu ngụy và CIA vẫn khẳng định: Hướng đối phó chính vẫn là Pleiku và Kon Tum. Chúng cho rằng hành động cắt đường số 14, 19 và 21 chỉ là hoạt động phối hợp của ta.

* Ngày 7/3/1975: Quân ta tiến công và làm chủ điểm cao Chư Xê

6 giờ 15 phút ngày 7/3/1975, tiểu đoàn 3, Trung đoàn 48 nổ súng tiến công Chư Xê. Sau 40 phút chiến đấu, ta đã làm chủ toàn bộ điểm cao, diệt 1 trung đội bảo an của địch. Đến đây, đường 14 bị gián đoạn, Buôn Ma Thuột bị chia cắt với Bắc Tây Nguyên.

Lúc này, địch mới phán đoán là ta chuẩn bị đánh Buôn Ma Thuột và cử Vũ Thế Quang làm “tư lệnh lãnh thổ Nam cao nguyên Trung phần”. Vũ Thế Quang lập tức ra lệnh báo động khẩn cấp ở Đức Lập và Buôn Ma Thuột, đồng thời, rút Trung đoàn 53 về thị xã. 

* Ngày 8/3/1975: Ta đánh chiếm quận lỵ Thuần Mẫn, cắt đường 14

Đúng 6 giờ sáng ngày 8/3/1975, Trung đoàn 48 Sư đoàn 320 nổ súng tiến công quận lỵ Thuần Mẫn. Thuần Mẫn là quận lỵ nằm trên ngã ba đường 14 và tỉnh lộ số 7B đi Cheo Reo, cách Buôn Ma Thuột khoảng 80 km và cách Pleiku khoảng 120km. 

7 giờ 20 phút, quân ta làm chủ hoàn toàn cứ điểm, diệt 1 tiểu đoàn bảo an, 2 trung đội cảnh sát và toàn bộ cơ quan chỉ huy chi khu; thu 200 súng các loại và 18 xe cơ giới. Đoạn đường số 14 từ Pleiku đi Buôn Ma Thuột bị cắt hẳn. 

Địch chỉ còn có thể tăng cường cho Buôn Ma Thuột bằng đường không. Chiều cùng ngày, địch tăng cấp báo động trong thị xã Buôn Ma Thuột và quận lỵ Đức Lập, đồng thời, thúc ép Trung đoàn 53 cơ động gấp về thị xã và dùng không quân chở liên đoàn biệt động quân số 21 (thiếu) từ Kon Tum đổ xuống sân bay Hoà Bình và Buôn Hồ để bảo vệ thị xã.

Phối hợp với chiến trường Tây Nguyên, trên mặt trận Trị-Thiên, 7 tiểu đoàn bộ đội địa phương cùng 100 đội vũ trang công tác của ta đã thọc sâu xuống cùng lực lượng vũ trang tại chỗ của 8 huyện đồng loạt tiến công, tiêu diệt địch và giải phóng quận lỵ Mai Lĩnh. Ở Khu 5, Sư đoàn 3 tiếp tục tiến công địch giải phóng Tiên Phước và Phước Lâm.

Cuối ngày 8/3/1975, sau khi kiểm tra lại tình hình, thấy Sư đoàn 10 đã hoàn thành mọi công tác chuẩn bị; các đơn vị khác cũng đã sẵn sàng tiến công vào thị xã, Bộ Tư lệnh Chiến dịch hạ quyết tâm: “Tiến công Đức Lập”.

 * Ngày 9/3/1975: Tiến đánh Đức Lập, giải phóng căn cứ 23 và Núi Lửa

Lúc 5 giờ 35 phút ngày 9/3/1975, Sư đoàn 10 bộ binh tiến đánh Đức Lập. Đức Lập là quận lỵ nằm sát biên giới Việt Nam - Campuchia về phía Tây Nam thị xã Buôn Ma Thuột khoảng hơn 50km. Quận lỵ Đức Lập là một quận lỵ lớn nằm trên đường số 14, án ngữ con đường vận tải chiến lược vào miền Đông Nam Bộ. Theo yêu cầu của chiến lược từ cuối năm 1974, việc giải phóng quận lỵ Đức Lập, chiếm đường số 14 ở đoạn này để nối tiếp đường chiến lược vào Lộc Ninh là yêu cầu rất cấp thiết. Việc giải phóng Đức Lập là nhiệm vụ rất quan trọng.

Sau đòn hoả lực chuẩn bị, trung đoàn 66 đã đột kích vào căn cứ 23. Đến 8 giờ 30 phút ngày 9/3/1975, ta đã tiêu diệt quân địch và chiếm được căn cứ 23. Cùng lúc, ở phía Tây, trung đoàn 28 cũng đã đánh chiếm căn cứ Núi Lửa. Sư đoàn 10 tiếp tục tổ chức tiến công vào chi khu (quận lỵ Đức Lập).

Lợi dụng công sự và xe thiết giáp đặt ngầm dưới đất, quân địch trong căn cứ chi khu đã chống trả quyết liệt. Ngày hôm đó, Sư đoàn 10 bộ binh không đánh chiếm xong chi khu và phải tạm dừng lại. Chiều cùng ngày, Bộ Tư lệnh Chiến dịch hạ quyết tâm: “Tiến công thị xã Buôn Ma Thuột”.
 
Các đơn vị hành quân tiến vào giải phóng Buôn Mê Thuật. Ảnh tư liệu TTXVN
Các đơn vị hành quân tiến vào giải phóng Buôn Mê Thuật. Ảnh tư liệu TTXVN

* Ngày 10/3/1975: Giải phóng Đức Lập, quân ta tiến công thị xã Buôn Ma Thuột

Sáng 10/3/1975, Sư đoàn 10 bộ binh tổ chức lại lực lượng, tiến công lần thứ hai và dứt điểm chi khu Đức Lập. Quận lỵ Đức Lập được hoàn toàn giải phóng. Bộ Tư lệnh Chiến dịch lập tức điều động một bộ phận lực lượng và phương tiện của Sư đoàn 10 bộ binh nhanh chóng chuyển về phía Đông thị xã Buôn Ma Thuột.

Tại thị xã Buôn Ma Thuột, từ 2 giờ sáng, Trung đoàn 198 đặc công đã nổ súng tiến công sân bay thị xã, sân bay Hoà Bình, khu kho Mai Hắc Đế, mở màn cuộc tiến công Buôn Ma Thuột. Cùng lúc đó, pháo chiến dịch chế áp mãnh liệt các mục tiêu: Sư đoàn bộ Sư đoàn 23, sở chỉ huy tiểu khu Đắk Lắk, trại pháo binh, thiết giáp của địch. Cuộc pháo kích kéo dài đến 6 giờ sáng, làm rối loạn và tê liệt cơ quan chỉ huy, tiêu hao một bộ phận lực lượng địch trong thị xã.

Trên hướng Đông Bắc, Trung đoàn 95B tràn lên đánh chiếm khu Ngã Sáu gần trung tâm thị xã. Trên hướng Tây Bắc, theo phương án tác chiến, Trung đoàn 148 (Sư đoàn 316) bắt đầu đánh chiếm khu pháo binh và khu thiết giáp, lúc 6 giờ sáng. Đến 15 giờ 30 phút, ta đánh chiếm được mục tiêu trên. Một bộ phận của Trung đoàn 148 (Sư đoàn 316) tiến theo đường Phan Bội Châu, đập tan cụm phòng ngự của địch ở trường trung học Bồ Đề, phát triển sang Ngã Sáu, bắt liên lạc với Trung đoàn 95B.

Trên hướng Tây-Tây Nam, Trung đoàn 174 (Sư đoàn 316) đánh chiếm khu kho Mai Hắc Đế. Tiểu đoàn 4 (Trung đoàn 24, Sư đoàn 10) được tăng cường một đại đội xe tăng và một đại đội xe bọc thép nhanh chóng vượt qua các ổ đề kháng của địch ở vòng ngoài, tiến công khu truyền tin và khu vận tải, áp sát căn cứ Sư đoàn bộ Sư đoàn 23 ngụy.

Đến 17 giờ 30 phút ngày 10/3/1975, bộ đội ta đã chiếm được hầu hết các mục tiêu trong thị xã. Tổng thống ngụy quyền Nguyễn Văn Thiệu và Tư lệnh quân đoàn 2 ngụy Phạm Văn Phú lệnh cho binh lính còn lại trong thị xã “tự thủ Buôn Ma Thuột bằng mọi giá” để chờ quân cứu ứng.
 
* Ngày 11/3/1975: Giải phóng hoàn toàn Buôn Ma Thuột; Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương ra Chỉ thị: Nhanh chóng nắm thời cơ giành thắng lợi to lớn hơn nữa

6 giờ sáng ngày 11/3/1975, các đơn vị binh chủng hợp thành của ta từ ba hướng mở trận công kích vào sở chỉ huy Sư đoàn 23 ngụy. Trong cơn tuyệt vọng, bọn địch cố dồn sức chống đỡ. Máy bay địch ném bom xuống đường phố. Xe tăng M48, M41 của địch liều mạng xông ra bịt các ngả đường.

Đến 11 giờ cùng ngày, sở chỉ huy Sư đoàn 23 ngụy bị tiêu diệt. Đại tá Vũ Thế Quang, sư đoàn phó Sư đoàn 23 và đại tá Nguyễn Trọng Luật, tiểu khu trưởng Đắk Lắk bị bắt.

Cờ Mặt trận dân tộc giải phóng được kéo lên trên cột cờ cao của Sư đoàn bộ Sư đoàn 23. Trận then chốt mở đầu Chiến dịch Tây Nguyên kết thúc thắng lợi sau 32 giờ tiến công mãnh liệt.

Chiều ngày 11/3/1975, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương gửi điện khen quân và dân Tây Nguyên đã nêu cao tinh thần quyết thắng, anh dũng và sáng tạo, táo bạo và khẩn trương giành thắng lợi to lớn ngay trong những ngày đầu Chiến dịch và chỉ thị: Nhanh chóng nắm lấy thời cơ thuận lợi, giành nhiều thắng lợi to lớn hơn nữa.

Bộ Tư lệnh Chiến dịch cũng lệnh cho Sư đoàn 10 nhanh chóng cơ động về đông bắc thị xã, sẵn sàng làm dự bị và chuẩn bị đánh địch phản kích lớn.

* Ngày 12/3/1975: Ta đánh địch phản kích và thành lập ủy ban quân quản tỉnh Đắk Lắk

Sau trận Buôn Ma Thuột, cục diện chiến trường chuyển biến mau lẹ. Bộ Chính trị đề ra chủ trương nhanh chóng nắm bắt thời cơ, giành thắng lợi lớn hơn nữa. Trong sử dụng lực lượng và phát triển tiến công phải linh hoạt, tập trung, không phân tán, khẩn trương và mạnh bạo. Hướng tiến công tiếp theo có thể là Huế, Đà Nẵng và khi có thời cơ, đánh mạnh vào Sài Gòn.

Trước mắt, Bộ Chính trị chủ trương củng cố vùng mới giải phóng sẵn sàng đánh địch phản kích; đồng thời, mở rộng tiến công ra xung quanh thị xã Buôn Ma Thuột, giải phóng hoàn toàn tỉnh Đắk Lắk; bao vây, cô lập Pleiku, Kon Tum nhanh chóng phát triển hướng về Cheo Reo. ở Tây Nguyên, chú trọng công tác tiếp quản và chính sách dân tộc. Tinh thần chỉ đạo của Bộ Chính trị đối với các chiến trường là kiên quyết thực hiện kế hoạch ban đầu, nhưng khẩn trương và mạnh bạo hơn.

Ngày 12/3/1975, Bộ Tổng Tư lệnh thông báo cho Bộ Tư lệnh Chiến dịch tin địch đang chuẩn bị lực lượng phản kích. Bộ Tổng Tư lệnh nhấn mạnh nhiệm vụ cấp thiết nhất của mặt trận là tập trung lực lượng nhanh chóng tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Buôn Ma Thuột và viện binh của chúng. Việc đó “sẽ có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển của Chiến dịch”.

Bộ Tư lệnh đã truyền đạt tinh thần chỉ đạo của Bộ đến các đơn vị, đôn đốc bộ đội truy quét tàn binh, diệt các cứ điểm còn lại của địch ở xung quanh thị xã Buôn Ma Thuột, đặc biệt là khu vực hậu cứ của Sư đoàn 23 ngụy (những vị trí địch có thể sử dụng làm bàn đạp phản kích).

Nhân dân thị xã Buôn Ma Thuột cùng bộ đội truy lùng tàn binh, đào hầm phòng không, xây dựng công sự chiến đấu. Ủy ban quân quản tỉnh Đắk Lắk được thành lập do đồng chí đại tá Y Blốc làm chủ tịch, động viên và tổ chức nhân dân ổn định đời sống, sản xuất, giữ gìn trật tự trị an, sẵn sàng chiến đấu.

 

Nhân dân Tây Nguyên cùng bộ đội kéo pháo chiếm các đỉnh cao ở Pleiku. (Ảnh/TTXVN)
 

 

Nhân dân và du kích xã Quế Lộc (Quảng Nam) rào làng chiến đấu. (Ảnh: Nguyễn Đán/TTXVN)
Nhân dân và du kích xã Quế Lộc (Quảng Nam) rào làng chiến đấu. (Ảnh: Nguyễn Đán/TTXVN)
 
Gia đình một nông dân ở Ân Phong, Hoài Ân, Bình Định ủng hộ lúa cho cách mạng, góp phần nuôi quân chiến đấu. (Ảnh: Thành Vinh/TTXVN)
Gia đình một nông dân ở Ân Phong, Hoài Ân, Bình Định ủng hộ lúa cho cách mạng, góp phần nuôi quân chiến đấu. (Ảnh: Thành Vinh/TTXVN)
 
Bằng mọi phương tiện thô sơ và cơ giới, các chiến sỹ vận tải Tây Nguyên vận chuyển hàng tấn hàng hóa phục vụ chiến dịch. (Ảnh: Thanh Tụng/TTXVN)
Bằng mọi phương tiện thô sơ và cơ giới, các chiến sỹ vận tải Tây Nguyên vận chuyển hàng tấn hàng hóa phục vụ chiến dịch. (Ảnh: Thanh Tụng/TTXVN)
 
Sở chỉ huy Mặt trận Giải phóng Tây Nguyên tháng 3/1975. (Nguồn: TTXVN)
Sở chỉ huy Mặt trận Giải phóng Tây Nguyên tháng 3/1975. (Nguồn: TTXVN)
 
Pháo binh và xe tăng quân Giải phóng trên đường hành quân vào giải phóng Quy Nhơn. (Nguồn: TTXVN)
Pháo binh và xe tăng quân Giải phóng trên đường hành quân vào giải phóng Quy Nhơn. (Nguồn: TTXVN)
 
Làm đường giao liên ở chiến khu Trung Trung bộ. (Nguồn: TTXVN)
Làm đường giao liên ở chiến khu Trung Trung bộ. (Nguồn: TTXVN)

.