VĂN HOÁ

05:06, 25/06/2009
.
VĂN HOÁ
DI TÍCH THỜI ĐẠI ĐÁ CŨ
 
*Di tích Giếng Tiền
 
Đầu năm 2006, một số nhà khảo cổ học đã tình cờ phát hiện trên bậc thềm cổ của miệng núi lửa Giếng Tiền ở phía Bắc đảo Lý Sơn có các công cụ đồ đá cũ. Các di vật thu nhặt gồm rìu tay, hòn ghè, hòn ném, bàn mài, vòng trang sức, đặc biệt có rất nhiều mảnh tước bị tách ra trong quá trình chế tác công cụ. Bước đầu các nhà khảo cổ học đã xác định đây là di tích cư trú và cũng là xưởng chế tác đá của cư dân ở sơ kỳ thời đại đá cũ, cách nay khoảng 30 vạn năm. Di tích giếng tiền có thể sánh tương đương với di tích đá cũ ở Núi Đọ (Thanh Hoá). Đây là di tích đá cũ đầu tiên được phát hiện ở Quảng Ngãi cũng như ở miền Trung Việt Nam.
 
 *Di Tích Gò Trá
 
Năm 1978, các nhà khảo cổ học đã thu nhặt các công cụ đá ở bậc thềm cổ Gò Trá thuộc thôn Trà Bình, xã Tịnh Thọ, huyện Sơn Tịnh. Quá trình xâm thực đã làm lộ ra các di vật của cư dân thời đại đá cũ, gồm rìu tay, hạch đá, công cụ mũi nhọn hình tam diện, mảnh tước nằm ở độ sâu 0,50m. Theo các nhà khảo cổ học thì dạng rìu tay bằng chất liệu đá thạch anh (quarzite) có niên đại muộn hơn Núi Đọ (Thanh Hoá), Xuân Lộc (Đồng Nai) thuộc cuối sơ kỳ đá cũ, cách nay khoảng 14- 15 vạn năm. Bộ di vật đá cũ ở Tịnh Thọ có mối tương đồng với các di vật đá cũ ở hang Thẩm Òm (Nghệ An) về chất liệu đá thạch anh, nhưng ở hang Thẩm Òm di vật cùng xương răng động vật hoá thạch ở hang trong lớp trầm tích thuộc đầu hậu kỳ cách tân, trong khi đó những di vật đá cũ ở Gò Trá lại nằm ngoài trời ở thềm cổ gần sông nên có khả năng trôi dạt từ nơi khác đến.
 
 Hai di tích thuộc thời đại đá cũ Giếng Tiền và  Gò Trá cho biết con người đã sinh sống trên vùng đất Quảng Ngãi từ buổi bình minh của lịch sử loài người. Đây là bước khởi đầu văn minh của người nguyên thủy để từ đó phát triển lên thời đại đá mới.
 
 DI TÍCH HẬU KỲ ĐÁ MỚI
 
Di tích Trà Phong
 
Là di tích được phát hiện và khai quật năm 2001. Địa điểm khai quật nằm bên triền đồi thung lũng sông Nước Niêu thuộc xã Trà Phong, huyện Tây Trà. Tầng văn hoá dày trung bình 0,65m, trong đó chứa các di vật như phác vật rìu, rìu vai, bàn mài, cuộn lăn gốm cùng rất ít mảnh gốm thô đỏ. Đặc trưng công cụ di tích Trà Phong khá gần gũi với văn hoá Biển Hồ (Tây Nguyên) ở loại hình rìu có vai chế tác từ đá lửa (shilex) rất cứng, hình dáng đốc dài, lưỡi xòe, vai ngang, thân hình cong lồi thấu kính, rìa lưỡi mài sắc. Loại bàn mài nhiều mặt cũng chế tác từ đá lửa, loại cuội lăn gốm có nguồn gốc từ sông suối và một khối đá nguyên liệu bằng ngọc thạch. Di tích Trà Phong thuộc thời đại đá mới ở giai đoạn hậu kỳ đã chớm qua sơ kỳ kim khí, có niên đại cách đây trên dưới 4.000 năm. Trên triền đồi thấp, gò thấp của vùng thung lũng sông Nước Niêu, sông Tang, sông Xà Lò,… Là những phụ lưu thượng nguồn sông Trà Khúc đều tìm thấy các công cụ đá như ở di tích Trà Phong. Cư dân hậu kỳ đá mới sơ kỳ kim khí Trà Phong cư trú trên khu vực rộng của vùng thung lũng thượng nguồn sông Trà Khúc. Bộ sưu tập của cư dân hậu kỳ đá mới có đặc trưng riêng. Đó là loại rìu mài toàn thân và sử dụng đến tận cùng đốc rìu, loại rìu vai có nấc, loại bàn mài bằng đá lửa rất cứng được tận dụng trên mọi bề mặt của khối đá hình lập phương. Đặc biệt, khuyên tai đá hình bầu dục làm bằng đá cuội cát kết có xuyên lỗ để đeo. Hiện nay, các nhà khảo cổ học tìm thấy các hiện vật thuộc hậu kỳ đá mới ở vùng thấp hơn như Trà Xuân (Trà Bồng) và Gò Nà (Bình Sơn). Từ đó cho thấy, cư dân hậu kỳ đá mới sơ kỳ kim khí Trà Phong có xu hướng tiến dần xuống đồng bằng thấp hơn để chiếm lĩnh, khai thác./.
 
 DI TÍCH VĂN HOÁ THỜI ĐẠI TIỀN SA HUỲNH
(Thuộc nhóm các di tích thời đại đồng thau)
 
1- Long Thạnh
 
  Di tích Long Thạnh phía Đông giáp biển, phía Tây giáp đầm nước ngọt An Khê, phía Bắc giáp đồi cát Phú Khương, phía Nam chính là thôn Long Thạnh, thuộc xã Phổ Thạnh, huyện Đức Phổ. Viện Khảo cổ học và Bao tàng Lịch sử Việt Nam đào thám sát và khai quật vào các năm 1977, 1978. Sau đó, có nhiều đợt khảo sát của các nhà khảo cổ học trong nước và nước ngoài. Cuộc khai quật năm 1978 tìm thấy di chỉ cư trú có tầng văn hoá dày trên 2m phát triển từ sớm đến muộn và khu mộ táng có 16 quan tài chum gốm chôn đứng.

Các chum chôn theo từng cụm vài chiếc cạnh nhau đã phản ánh quan hệ thân tộc của cư dân cổ Long Thạnh. Chum gốm Long Thạnh có hai loại hình trứng và hình cầu, hầu hết bên trên có nắp đậy. Bên trong chum có chứa rất nhiều đồ tùy táng gồm đồ đá, đồ xương và đồ gốm. Tuy nhiên, số lượng di vật tuỳ táng bên trong các chum không đồng đều, điều đó có thể là biểu hiện cộng đồng xã hội của cư dân cổ Long Thạnh đã có sự phân chia giàu nghèo. Đặc trưng bộ sưu tập di vật của cư dân cổ Long Thạnh rất phong phú. Công cụ sản xuất bằng đá bao gồm các loại cuốc đá diệp thạch dạng “lưỡi mèo”, bôn rìu dạng “răng trâu”, rìu vai, rìu tứ giác, rìu tam giác, bàn mài, dao, đục,…

Tính đa dạng và số lượng nhiều của công cụ sản xuất cho thấy cư dân cổ Long Thạnh có trình độ nông nghiệp phát triển. Bộ sưu tập đồ trang sức từ đá ngọc nephrit rất phong phú, gồm có khuyên tai hình vành khăn, khuyên tai có mấu hình đuôi cá, hạt chuỗi hình đốt trúc, khuyên tai hình tròn bản dẹt có khe hở,… Hầu hết đồ trang sức được chế tác, mài dũa và tạo hình công phu, thể hiện tính thẩm mỹ cao của chủ nhân. Đồ gốm của cư dân cổ Long Thạnh thực sự là những tác phẩm nghệ thuật, đó là những chiếc bình lọ hoa gốm có chung đặc điểm la cổ cao, miệng loe, eo cổ tròn và bụng tròn, có chân đế hoặc không. Đặc trưng của bình lọ hoa gốm Long Thạnh là tạo dáng cân đối, các đường cong lượn mềm mại, toàn thân bình phủ kín các loại hoa văn, trên đó nổi bật đồ án chữ S có tô chì bên trong, mô tả cách điệu các loại sóng biển. Hầu như trên tất cả các đồ đựng bằng gốm, đồ trang sức bằng đá quý đều được cư dân cổ Long Thạnh chú ý chế tác công phu. Đây là điểm đặc trưng nổi bật, phản ánh niên đại rất sớm của Long Thạnh. Di tích Long Thạnh đại diện cho các di tích tiền Sa Huỳnh sơ kỳ đồng thau. Niên đại tuyệt đối C14 : 2875 ± 60 B.P (Bln. 2054) độ sâu 0,6m và 3370 ± 40 B.P (77GMV- TS), độ sâu 1,20m. Niên đại tương đối của di tích khoảng trên 3.000 năm cách ngày nay.
 
2- Bình Châu I
 
 Di tích Bình Châu I phân bố trên  một trảng cát lớn gần biển thuộc xã Bình Châu, huyện Bình Sơn. Viện khảo cổ học khai quật năm 1978 trên hai địa điểm gồm: gò Ông Đảnh và gò Ông Sáo. Kết quả khai quật di tích Bình Châu I cho thấy, ở đây có hai khu cư trú và khu mộ táng. Khu mộ táng tìm thấy 7 mộ đất, đồ tùy táng gồm nồi, bát bồng, bình con tiện, đều được đặt úp ngược hoặc nghiêng. Đặc trưng di vật Bình Châu I gồm có các loại: đồ đá (cuốc đá lưỡi xoè nở hình trái tim), đồ đồng (có mũi tên, lao, lưỡi câu), đồ gốm (có các loại nồi miệng loe, vai gảy, đáy chỏm cầu, các loại bát bồng chân thấp và chân cao, bình hình con tiện, chén gốm), loại trang sức khuyên tai gốm hình đĩa. Đặc trưng đồ gốm Bình Châu I là trên thân đồ gốm luôn được tô đỏ để làm nổi bật các băng dải tô chì ở vành miệng, vai và chân đế. Tại di tích Bình Châu I còn tìm thấy mảnh nồi nấu đồng, là bằng chứng của nghề đúc đồng. Niên đại của Bình Châu I ở giai đoạn đồng thau phát triển, cách nay khoảng trên 2.500 năm.
 
3- Bình Châu II
 
Di tích Bình Châu II, thuộc thôn Châu Thuận, xã Bình Châu, huyện Bình Sơn. Đặc trưng di tích Bình Châu II phân bố ở vùng thấp ven sông, tầng văn hoá cư trú dày trên 2m, có kết cấu đất pha cát, chuyển biến từ sớm đến muộn. Trong tầng văn hoá có đan xen mộ đất, mộ vò. Di vật Bình Châu II phong phú về chủng loại. Nằm ở lớp sớm có các công cụ đá như bôn hình răng trâu, rìu vai, cuốc hình lưỡi mèo, bàn mài và chày nghiền. Nằm ở lớp muộn có đồ đồng các loại, như rìu xoè cân, mũi nhọn đồng, đặc biệt có nhiều xỉ đồng, hạt đồng, nồi nấu đồng, muôi rót đồng,… Qua các hiện vật này, có thể thấy ở tầng văn hoá lớp muộn của di tích Bình Châu II đã có dấu hiệu của nghề luyện kim đồng khá phát triển. Đồ xương có nhiều mũi nhọn, xương có dấu vết chế tác. Đồ gốm có các loại hình nồi, bát bồng, bình hình con tiện, nồi minh khí, dọi xe chỉ. Đặc trưng đồ gốm Bình Châu II có sự chuyển biến về mặt loại hình từ sớm đến muộn. Niên đại tương đối của lớp sớm Bình Châu II khoảng 3.000 năm ở giai đoạn sơ kỳ đồng thau, lớp muộn ở giai đoạn đồng thau phát triển, tương ứng với niên đại di tích Bình Châu I.
 
Các di tích Long Thạnh, Bình Châu II, Bình Châu I thuộc phạm trù của dòng chảy văn hoá Tiền Sa Huỳnh, không gian tồn tại và phát triển ở thời đại đồng thau. Các dòng chảy văn hoá Tiền Sa Huỳnh là nền tảng, tạo động lực quan trọng để tiếp tục phát triển lên thời đại sắt sơ kỳ của Văn hoá Sa Huỳnh.
 
 DI TÍCH VĂN HÓA SA HUỲNH  
(Thuộc nhóm các di tích thời đại đồ sắt)
 
  *Phú Khương
 
 Di tích phân bố trên cồn cát Sa Huỳnh cạnh đầm An Khê, thuộc thôn Phú Khương, xã Phổ Khánh, huyện Đức Phổ. Vị trí phía Đông giáp biển, phía Tây giáp đầm An Khê. Di tích Phú Khương được Vinê (M. Vinet) phát hiện năm 1909; La Barơ (La Barre) khai quật năm 1923. Kết quả khai quật được Pacmăngchiê (H. Parmentier) chỉnh lý và công bố. Di tích Phú Khương là khu nghĩa địa dày đặc các quan tài chum gốm, được chôn cạnh nhau trên cồn cát, một bên là biển và một bên là đầm nước ngọt. Các quan tài chum có hai dạng hình trứng và hình trụ, có kích thước lớn, cao gần 1m. Di vật Phú Khương có các loại bằng đồng thau, gồm có chuông, lục lạc, tượng và chậu. Di vật bằng sắt chủ yếu là các công cụ sản xuất là vũ khí. Đồ trang sức có các hạt chuỗi ma não và thủy tinh, dạng hình tròn, hình trụ, hình thoi, hình đa diện, với các màu xanh, đỏ, tím, hồng. Khuyên tai hình vành khăn dẹt có khe hở, hình vuông dẹt có khe hở, khuyên tai bốn mấu nhọn và ba mấu nhọn. Di tích Phú Khương thuộc giai đoạn sơ kỳ sắt, niên đại tương đối vào khoảng trước Công nguyên một vài thế kỷ.
 
 *Thạnh Đức
 
 Di tích thuộc thôn Thanh Đức, xã Phổ Thạnh, huyện Đức Phổ. Đây là khu nghĩa địa mô chum văn hoá Sa Huỳnh nằm trên cồn cát cổ, một bên giáp với biển Đông, một bên giáp với đầm nước Tân Diêm. Di tích được La Barơ khai quật năm 1923 với khoảng 120 mộ chum. Đến năm 1934, Côlani (M. Colani) khai quật được 55 chum. Đây là khu nghĩa địa lớn của cư dân Văn hoá Sa Huỳnh. Các chum ở Thạnh Đức có dáng hình trụ, cao gần 1m, trên có nắp đậy hình nón cụt. Các chum chôn đứng theo từng cụm, bên trong chum chứa nhiều đồ tuỳ táng, bao gồm: các loại lục lạc, vòng tay đồng sắt kết hợp giáo, dao, rựa, cuốc, thuổng,… bằng sắt. Hạt chuỗi ma não (agate), đá ngọc nephrit và hạt chuỗi hình cầu, hình thoi, hình tròn. Trong chum chứa nhiều đồ gốm như nồi, bát hồng, bình,… được trang trí tô chì và nhiều hoa văn đẹp. Niên đại tương đối của di tích khu mộ chum Thạnh Đức vào khoảng trước công nguyên một vài thế kỷ.
 
*Gò Quê
 
  Di tích Gò Quê ở thôn Sơn Trà, xã Bình Đông, huyện Bình Sơn, được khai quật năm 2005, tìm thấy 21 mộ chum và 10 mộ đất, trên 60 di vật tùy táng. Di tích Gò Quê là khu nghĩa địa của cư dân văn hoá Sa Huỳnh chôn trên cồn cát có độ cao 5- 6m, nằm trong vùng vịnh Vũng Quýt, ở về phía Nam cửa Sa Cần của sông Trà Bồng. Khu nghĩa địa này tồn tại hai tục chôn cất của cùng một chủ nhân, đó là tục chôn cất bằng quan tài chum gốm và tục chôn mộ đất. Các quan tài chum Gò Quê có kích thước lớn, cao khoảng 1m, chôn đứng theo từng cụm khoảng 4- 5 chiếc cạnh nhau. Trong chum có nhiều đồ tùy táng, bao gồm: đồ đồng (có giáo, rìu, dao găm, khuy áo), đồ sắt (có kiếm, dao găm, quặng sắt); đồ đá quý và thủy tinh làm trang sức (có khuyên tai tinh thể đá thạch anh (quarzite), hạt chuỗi ma não (agate), các khuyên tai đá ngọc nephrit gồm các loại ba mấu nhọn, bốn mấu nhọn, ống chuỗi làm vòng đeo). Đặc biệt, bên trong chum có chứa nhiều đồ gốm như nồi, bình, bát. Ngoài mộ chum, ở Gò Quê còn có nhiều mộ đất chôn đồng thời với mộ chum, của cùng một chủ nhân. Đặc trưng mô đất Gò Quê là các đồ tuỳ táng được đặt nghiêng, hoặc úp, bị đập vỡ hay ghè chân đế giống với phong cách táng tục của cư dân Bình Châu I, Bình Châu II thuộc giai đoạn Tiền Sa Huỳnh.

Đồ tuỳ táng trong mô đất có các loại: đồ đồng, đồ sắt, đồ gốm, đặc biệt có thanh đao đồng sắt kết hợp. Di tích Gò Quê là khu nghĩa địa lớn của cư dân văn hoá Sa Huỳnh có những tục táng đặc biệt, như tục táng đồng hành mộ đất và mộ chum, hiện tượng rải gốm trong mộ, các đồ gốm tuỳ táng trong mộ đều ghè vỡ, đồ gốm tuỳ táng đặt cả bên trong và bên ngoài chum, hiện tương phân chia giàu nghèo, vai trò thủ lĩnh thông qua các di vật tuỳ táng. Trong mộ của chủ nhân văn hoá Sa Huỳnh này có nhiều đồ đồng Đông Sơn như rìu, giáo, dao găm, hộ tâm phiến (tấm che ngực), khuy áo, đặc biệt thanh đao đồng sắt kết hợp, minh chứng cho sự kết hợp kỹ thuật Sa Huỳnh và Đông Sơn. Niên đại tuyệt đối C14 của di tích Gò Quê, mẫu 1 là 1980 ± 50 B.P và mẫu 2 là 2040 ± 50 B.P, cách ngày nay. Niên đại tương đối của di tích mộ táng Văn hoá Sa Huỳnh Gò Quê ở vào khoảng trước công nguyên một và thế kỷ.
 
*Xóm Ốc
 
Di tích Xóm Ốc ở thôn Đông, xã An Vĩnh, huyện đảo Lý Sơn, nằm bên bờ suối Ốc, gần bờ biển phía Nam đảo. Di tích do Đoàn Ngọc Khôi đào thám sát phát hiện năm 1996, Viện khảo cổ học phối hợp với tỉnh Quảng Ngãi khai quật năm 1997. Di tích Xóm Ốc là nơi cư trú của cư dân Văn hoá Sa Huỳnh, đồng thời trong tầng văn hoá có xen lẫn mộ táng. Tầng văn hoá cư trú của cư dân cổ dày trên 1,50m, có cấu tạo đất bazan pha cát ken dày vỏ các loài nhuyễn thể. Qua các tầng văn hoá Xóm Ốc được khai quật cho thấy, cư dân cổ ở đây cư trú ổn định lâu dài. Môi trường sống của cư dân Văn hoá Sa Huỳnh ở Xóm ốc là biển đảo nên nguồn thực phẩm chủ yếu của họ là khai thác các loài thủy sản. Mộ táng Xóm Ốc có loại mộ đất chôn song táng, gồm hai người nam và nữ, di cốt còn nguyên. Ngoài ra còn có loại mộ nồi, vò chôn đứng, chủ yếu là chứa các di cốt trẻ em.

Di vật Xóm Ốc có đồ đá như rìu, cuốc, bàn mài, đồ đồng như rìu, mũi tên, lưỡi câu, đồ sắt như dao, đồ đá quý và thủy tinh làm trang sức như khuyên tai ba mấu, hạt chuỗi, đồ gốm có nồi vai gãy, bình hình con tiện, bát bồng. Đặc biệt, Xóm Ốc có bộ sưu tập di vật mang đặc trưng sắc thái biển tương đồng văn hoá với các đảo trong khu vực lòng chảo Thái Bình Dương, đó là các công cụ và trang sức chế từ vỏ tridacna (ốc tai tượng), nắp turbo (ốc mặt trăng), ốc hoa (ốc tiền),… Qua di tích và di vật Xóm Ốc có thể thấy nguồn gốc hình thành nên Văn hoá Sa Huỳnh trên đảo khởi đầu từ các dòng chảy văn hoá Tiền Sa Huỳnh ở đất liền như Long Thạnh, Bình Châu I, Bình Châu II hình thành nên. Trong quá trình phát triển, cư dân văn hoá Sa Huỳnh ở Xóm Ốc giao lưu mạnh mẽ trong khu vực hải đảo và lục địa để tàm tăng sức sống nội sinh. Niên đại tuyệt đối C14 mẫu 1: 1910 ± 60 B.P và mẫu 2 là 1900 ± 60 B.P. Niên đại tương đối lớp sớm của Xóm Ốc cách nay khoảng 2.500.
   
*Suối Chình
 
Di tích Suối Chình nằm trên cồn cát cạnh biển, phía Đông đảo Lý Sơn, thuộc xã An Hải. Di tích được Phạm Thị Ninh khai quật năm 2000. Di tích Suối Chình có nguồn gốc phát triển từ giai đoạn muộn của Xóm Ốc. Di tích Suối Chình là nơi cư trú của cư dân văn hoá Sa Huỳnh, đồng thời trong tầng văn hoá có xen lẫn mộ táng. Tầng văn hoá Suối Chình có cấu tạo đất đỏ pha cát biển, gốm xen lẫn vỏ nhuyễn thể (do con người cư trú ăn bỏ lại). Trong tầng văn hoá có chứa mộ nồi chôn úp nhau theo chiều thẳng đứng, đồ tuỳ táng được đặt bên trong hoặc bên ngoài. Bên trong các mộ nồi đều có di cốt trẻ em. Đặc trưng di vật đồ đá gồm có rìu, mai, cuốc, bàn mài…; đồ sắt có dao, kiếm; đồ trang sức bằng đá quý, thủy tinh như khuyên tai ba mấu, hạt chuỗi, đặc biệt có đồ trang sức hạt chuỗi, vòng đeo, được chế tác theo cách khoan mài tinh vi từ lõi tridacna và các loại ốc, sò; đồ gốm có các loại nồi, bát. Niên đại Suối Chình ở vào khoảng đầu Công nguyên.

*Thành cổ Châu Sa
 
 
Nằm ở xã Tịnh Châu, huyện Sơn Tịnh, còn gọi là thành Hời, là một ngôi thành đất được xây dựng vào khoảng thế kỷ thứ IX- X. Phía Tây giáp núi Bàn Cờ, Nam giáp sông Trà Khúc, Bắc giáp núi Đầu voi. Thành Châu Sa gồm một thành ngoại và một thành nội, theo bình đồ hình chữ nhật. Thành nội chiều ngàng 558m, chiều dài 586m, chân rộng 25m, bề mặt rộng 5,2m. Thành ngoại có hai bờ dài 600m, chạy ra giáp sông Trà Khúc. Thành có hào rộng 12m, bọc thành ngoài. Sách Đại Nam nhất thống chí, phần về tỉnh Quảng Ngãi có ghi là chu vi thành hơn 5 mẫu, 2 sào.
 
 *Hệ thống phòng thành Cổ Lũy
 
 Thuộc xã Nghĩa Phú, huyện Tư Nghĩa, nằm bên hữu ngạn sông Trà Khúc, gần cửa Đại Cổ Lũy, do vương quốc Chămpa xây dựng vào khoảng thế kỷ thứ IX, X, là hệ thống phòng thành cho thành Châu Sa. Hệ thống phòng thành Cổ Lũy có 3 vòng thành: thành Bàn Cờ, thành Hòn Yàng, lũy Cổ Lũy.
 
 Thành Bàn Cờ là công trình chính của hệ thống phòng thành Cổ Lũy, có hình thang cân, cạnh trên 52m, đáy 60m, cao 25m, diện tích mặt thành khoảng 500m2. Bờ thành Bàn Cờ vốn được xây bằng gạch. Trên mặt thành có tháp Chăm, nhưng nay đã bị phá, chỉ còn ngổn ngang gạch vỡ.
 
 Thành Hòn Yàng, cách thành Bàn Cờ khoảng 300m về phía Bắc, gần sát sông Trà Khúc, là một thành cổ được đắp bằng đất, nhỏ hơn thành Bàn Cờ, cũng có 2 bờ thành nội và ngoại.
 Lũy Cổ Lũy nằm cách cửa Đại khoảng 700m, nay còn ít dấu vết.
 
 *Thành cổ Xuân Quang
 
 Thuộc thôn Xuân Quang, xã Nghĩa Hà, huyện Tư Nghĩa, do Trấn Nam dinh Phó đô tướng Mai Đình Dõng tổ chức xây dựng từ cuối thế kỷ thứ XVI. Sách Đại Nam nhất thống chí, Quảng Ngãi nhất thống chí cũng cho biết, thành Xuân Quang được đắp bằng đất, cao 5 thước (2m), đông tây 53 trượng (106m), nam bắc 92 trượng (184m). Nay thành đã bị tàn phá, chỉ còn lại một vài dấu tích.
 
 *Thành tỉnh Quảng Ngãi
 
 Nằm trong khu vực thành phố Quảng Ngãi hiện nay. Thành được xây dựng từ năm 1807, xây đá ong năm 1815. Thành tỉnh Quảng Ngãi có kiến trúc theo kiểu vôbăng (vauban) của người Pháp, bình đồ vuông, được xây bằng đá ong, chu vi hơn 2.000m, cao 4m, tổng diện tích trên 26ha. Thành có 3 cửa là Đông, Tây, Bắc. Bên trong cửa thành có các con đường lát gạch. Cửa thành xây hình vòm cuốn, có vọng lâu, có trang bị súng thần công. Hào thành rộng hơn 20m, thông với sông Trà Khúc. Thời phong kiến, trong thành có các ty Phiên, ty Niết (ty Bố chánh và ty Án sát) là các cơ quan đứng đầu chính quyền cấp tỉnh, hành cung (là nơi dành cho vua nghỉ trên đường kinh ký), sau còn có các dinh thự khác, như dinh Tuần vũ, Lãnh binh, Đốc học, Thái y viện,… vào thời Pháp thuộc còn có Sở Lục lộ, Dinh Phó sứ, Bưu điện,… Thành được san bằng để thực hiện tiêu thổ kháng chiến từ năm 1947, nên ngày nay chỉ còn một và dấu vết ở phía Nam và phía Đông thành, hào thành.
 
 Trước khi thành Quảng Ngãi dời về địa điểm hiện nay, lỵ sở dinh, trấn Quảng Ngãi đóng ở Phú Nhơn, Sơn Tịnh, sau dời về làng Phú Đăng (thuộc phủ Tư Nghĩa), nhưng nay các thành này gần như không còn dấu vết. Thành Phú Đăng hiện cũng chưa xác định được địa điểm.
 
 Ở Quảng Ngãi còn có thành cổ Bình Sơn, thuộc huyện Bình SƠn, sách Đại Nam nhất thống chí và các sử liệu cũ khác có ghi: thành ở phía Tây trại An Hoà và Kim Thành, tương truyền thành là lỵ sở cũ của huyện Bình Dương đời Lê, chỗ đóng thành là Thượng Nha. Nay dấu vết thành cũng đã hoàn toàn mờ nhạt.

 KIẾN TRÚC NHÀ Ở CỦA CÁC DÂN TỘC TRONG TỈNH
 
 Kiến trúc nhà ở dân gian của người Việt
 
* Nhà tranh tre
 
Nhà tranh tre có 3 gian, 2 chái, mặt bằng ngôi nhà chia làm 3 phần: nhà chính, nhà ngang và nhà bếp, được đặt liền kề nhau theo kiểu chữ L. Giữa nhà chính và nhà ngang không có sự liên kết, song giữa nhà ngang và nhà bếp được làm chung một vách và một cửa thông nhau để cho các thành viên trong gia đình có thể đi lại, nấu nướng, ăn uống dễ dàng. Chuồng trại nuôi heo, gà được bố trí liên hoàn với nhà bếp. Thường bên phải nhà chính là chuồng nuôi trâu bò. Kiến trúc nhà tranh tre từ vật liệu tranh tre dễ tìm. Mái nha thường lợp tranh già và dày. Tranh lợp mái theo lối trải, đầu tranh cột lạt vào rui mè. Hệ thống đòn tay đỡ mái liên kết với kèo cột qua các chốt sẻ. Vách nhà bằng đất, cốt bên trong là tre làm mầm, cột nhà bằng tre ngâm.
 
  Chức năng của nhà chính là thờ phụng, tiếp khách, đàn ông ngủ; nhà ngang chia làm 2 phần, gồm nơi ăn uống và bảo quản chế biến lương thực; bếp dùng để nấu nướng. Bên trong nhà chính có 8 hàng cột, chia mặt bằng sinh hoạt của nhà chính thành 3 gian: gian giữa là nơi đặt bàn thờ tổ tiên, phía trước đặt tấm phản gỗ và bộ ghế gỗ để tiếp khách đàn ông của ông chủ gia đình (nếu khách ở lại thì có thể ngủ trên phản đặt trước bàn thờ). Đây là không gian linh thiêng và trang trọng nhất của ngôi nhà. Nhà chính có một cửa chính để ra vào. Gian phía Tây có một góc buồng vách bằng phên liếp tre đan, gọi là buồng Tây, dùng để đặt đồ đạc và là chỗ ngủ của ông chủ gia đình. Phía ngoài được đặt thêm phản ngủ để dành cho con trai trong nhà. Trong gian này có một cửa phụ và một cửa chính ra vào. Gian phía Đông được dành cho đàn bà con gái trong nhà. Tại gian này, phía Đông ngăn phên liếp tre thành buồng riêng, gọi là buồng Đông, dành cho bà chủ trong gia đình (hoặc cho vợ chồng con trai trưởng, nếu gia đình đó phân chia thêm một tiểu gia đình). Trong gian này có phản gỗ dùng cho con gái trong nhà sinh hoạt, ngủ và bà chủ gia đình tiếp khách nữ trên tấm phản gỗ được đặt trong gian giữa của ngôi nhà (lệch với bàn thờ). Trong gian này có một cửa chính ra vào.
 
 Kiến trúc nhà tranh tre có đến 32 cột, trong đó 16 cột chính. Cột nhà được làm từ loại tre đặc ruột, ngâm chín, rất bền chắc. Trong không gian ngôi nhà số lượng cột chia thành 8 hàng ngang để đỡ 8 vì kèo tre. Vì kèo thường là kiểu vì kèo gác trính chuyền. Vì kèo liên kết với cột bằng hệ thống chéo dọc, gác qua hệ thống trỏng nóc (trụ chồng) để đỡ thượng lương. Các trỏng nóc đặt trên điểm giữa của trính cặp thượng, lực đè sẽ được phân đều qua hai trụ cột chính. Trính cặp hạ là hai thanh tre dài, liên kết với đoạn cuối của hai tay kèo, gác qua hai cột nhì và tiền hậu (cột vách), liên kết với hai cột chính ở giữa lòng nhà bằng hệ thống chốt sẻ. Trính cặp hạ phân đều qua 4 cột. Ở hàng cột nhì tiến và hậu kết cấu kèo phụ gồm hai đoạn tre liên kết kèo cột theo thế tung hoành để đỡ mái, chống gió xoáy giật. Để tăng cường sự bền vững của ngôi nhà, người ta đào sâu lỗ cột vách và cột hiên, lấy tre nẹp chặt để làm cừ chống gió bão gây đổ nhà. Phần mái lợp tranh già, các tấm tranh lợp theo lối lợp lớp hoặc kéo trài, đầu tấm tranh buộc lạt chắc chắn vào tui mè và hệ thống đòn tay. Trên nóc nhà có hai lớp tranh được xếp dày gọi là sắp nóc để chống dột và che mưa nắng. Để tăng cường sự bền vững cho ngôi nhà, người ta dùng tranh già, tre ngâm để xây dựng. Nhìn chung, loại hình nhà tranh vách đất tuy đơn giản, song kết cấu kiến trúc khá công phu. Sự liên kết giữa các bộ phận luôn luôn phù hợp, cân xứng và giữ đúng chức năng, đem lại sự bền vững cho ngôi nhà.
 
* Nhà rường
 
Nhà rường là loại hình nhà ở kiên cố bền vững, kết cấu bộ khung nhà gồm cột, trính, xuyên, rui mè bằng gỗ tốt chịu lực. Quảng Ngãi có rất nhiều nhà rường, được phân bố ở hầu hết các huyện trong tỉnh. Niên đại xây dựng những ngôi nhà rường thường có từ 100 năm đến trên 150 năm. Các ngôi nhà rường cổ ở Quảng Ngãi hầu hết là của những dòng họ, gia đình giàu có, có địa vị nhất định trong xã hội. Nhìn chung mặt bằng kiến trúc nhà chính và nhà phụ của nhà rường đều ở dạng chữ nhất hay chữ đinh, một nửa phần trên giống chữ L. các ngôi nhà rường đều được xây dựng theo thuật phong thủy như hướng nhà, giờ động thổ; nếu hướng nhà ít được thuận lợi thì người ta làm thêm bức bình phong. Mỗi  ngôi nhà rường có hệ thống các công trình phụ, như giếng nước, bếp, chuồng trại,…
 
Nhà rường có hai dạng, gồm dạng nhà rường điển hình và dạng nhà song nga. Hai dạng này khác nhau ở lối kết cấu và lối bố trí không gian sinh hoạt bên trong ngôi nhà. Phần vỏ mái có khi lợp tranh hoặc lợp ngói âm dương; tường thường được xây bằng gạch hoặc đá ong.
 
 Nhà rường có 5 gian, gồm 3 gian chính và 2 gian phụ (chái), cá biệt cũng có nhà đến 7 gian (5 gian chính và à gian phụ). Thông thường số hàng cột của nhà rường dao động từ 4 đến 7 hàng cột. Giữa lòng nhà có hàng cột cái (cột chính) cao to, với các tên gọi khác nhau: hai cột trong phía Đông gọi là nhứt đông hậu, hai cột trong phía Tây gọi là nhứt tây hậu, hai cột ngoài phía Đông gọi là nhứt đông tiền, hai cột ngoài phía Tây gọi là nhứt tây tiền. Các cột cái này liên kết với kèo để đỡ khung nhà và mái. Cột thường được làm bằng gỗ mít, trau chuốt, dáng thượng thu hạ thách, các cột cái được nâng cao hơn bởi các bệ đá. Các cột quân (cột phụ) nhỏ hơn, cũng có các tên gọi như sau: dãy cột quân lùi bên trong hàng cột cái gọi là dãy cột hàng nhì hậu, dãy cột quân tiến phía trước hàng cột cái gọi là cột hàng nhì tiền. Hai dãy cột này để đỡ kèo nhì gác qua. Ở 4 góc nhà có 4 cột quyết để đỡ kèo quyết, chúng được phân chia thành đông hậu, tây hậu, đông tiền, tây tiền. Bốn cột vách đông tây gọi là cột đấm, có chức năng đỡ các kèo đấm thả xuôi từ cột cái. Các cột cái và cột quân chia không gian nhà ra làm 3 phần: gian chính giữa lẫn hai gian bên thờ phụng, tiếp khách và cũng là nơi ngủ của đàn ông. Hai chái hai bên là hai buồng gọi là đông phòng và tây phòng. Đây là buồng ngủ của phụ nữ và con cái. Dãy cột vách mặt trước nhà (hàng nhì tiền) gồm 4 cột được kè gỗ làm ngạch tạo thành 3 khuôn cửa để đặt 3 gian cửa bàn khoa bằng gỗ.
 
Kết cấu kiến trúc nhà rường với bộ khung nhà cột trính, xuyên, kèo liên kết với nhau bằng phương pháp chốt mộng chắc chắn. Bộ vì kèo chính với kiểu đâm trính, vì con đội đòn dông. Vách nhà thường là vách lụa trang trí ô hộc. Trên các đầu kèo thường chạm nổi hình long phù, mặt kèo trang trí những đường kẻ chỉ hay diềm hoa lá. Đặc biệt trên các kèo hiên (ngạo) thường trang trí hình cá chép hay giao long. Đôi khi hiên trước được xử lý nâng cao, rộng thoáng, với mục đích để làm các rui tàu trang trí các phù điêu theo mô tuýp điển tích cổ.
 
 Cửa bàn khoa trong các ngôi nhà rường đóng vai trò quan trọng trong việc tạo nên mặt diện cho ngôi nhà. Nhà rường thường có 3 gian cửa bàn khoa chính. Mỗi một gian cửa bàn khoa thường có 3 cánh hoặc 4 cánh liên kết nhau bằng chốt gỗ. Bệ dưới của mỗi cửa bàn khoa có ngỏng quay nhằm giúp cho việc đóng mở dễ dàng. Bệ trên đỉnh cửa có một chốt gỗ được tra theo chiều dọc, để đóng cửa. Mỗi cửa bàn khoa đều có chấn song nằm ở vị trí 1/3 cửa tính từ đỉnh cửa xuống, có tác dụng thông gió và quan sát bên ngoài. Bên trong chấn song còn có một tấm gỗ kéo có chức năng đóng mở. Mỗi gian cửa bàn khoa có cấu tạo bao áp cửa và trụ cánh dọc.
 
* Nhà lá mái (nhà đắp)
 
Kiểu nhà này có hai mái, một mái đất và một mái phía trên có kèo tre lợp tranh. Giữa hai mái này là khoảng trống. Nhà lá mái có số lượng cột từ 36 đến 42 cũng như nhà rường. Tuy nhiên, các cột chịu lực ở giữa nhà đều có kích thước lớn gần như nhau, có tác dụng đỡ tầng mái đất nặng nề. Các cột vách thì nhỏ hơn. Vì kèo chính của nhá lá mái là kèo rường và vì kèo con đội đòn dông. Con đội được cách điệu kiểu đầu choãi cánh dơi, cánh phụng, chân đế cách điệu cánh sen. Vì kèo thượng đỡ thượng lương và xuôi về hai hàng cột cái, chốt mộng ở đầu cột, kèo hạ còn gọi là kèo nhì liên kết cột cái và hai hàng cột hàng nhì (tiền, hậu). Phía mặt tiền có hai kèo nối với cột hàng ba và hàng tư gọi là ngạo hàng ba (ngạo thượng) và ngạo hàng tư (ngạo hạ). Một số ngôi nhà ở ngạo hàng tư thay thế bằng bảng trần gỗ gọi là bảng rui tàu chuyển đai, bề mặt được trang trí ô hộc và nhiều mô tuýp hoạ tiết khác nhau theo kỹ thuật chạm nổi. Phần mái bên trên là vỏ mái tranh, hoặc ngói được đỡ bởi hàng cột chống cắm thẳng qua trần đất mái dưới và gắn trên đầu các cột. Phần mái dưới được đắp đất, bên dưới có một lớp ván gỗ nhỏ tạo cho trần đất luôn bền chắc.
 
 
 
Bên trong nội thất của kiểu nhà lá mái có rất nhiều tác phẩm chạm khắc gỗ tinh xảo, chúng được thực hiện từ bàn tay tài hoa, khéo léo của người thợ theo hai kỹ thuật là chạm thủng và chạm nổi. Nghệ thuật trang trí chạm khắc gỗ được thể hiện ở khắp ngôi nhà, từ hệ thống bảng lồng, bảng rui tàu, bảng võng đến các kèo, trụ chồng,… với nhiều chủ đề trang trí khác nhau. Nhà lá mái của ông Lê Lý ở Lý Sơn là một điển hình. Ngôi nhà có 42 cột, trong đó có 8 cột cái cao to chắc chắn xếp thành hai hàng, tiếp đến là dãy cột hàng nhì, dãy cột hàng ba và dãy cột hàng tư. Với 6 hàng cột chính đã chia không gian ngôi nhà thành 5 lớp, tính từ trong ra ngoài: Lớp 1 đặt bàn thờ tổ tiên, lớp 2 dùng lễ bái, lớp 3 và lớp 4 là nơi tiếp khách, lớp 5 là hiên ngoài. Giữa lớp 2 và lớp 3 được ngăn cách nhau bởi hệ thống cửa bàn khoa bên trong, giữa lớp 4 và lớp 5 ngăn cách nhau bởi hệ thống cửa bàn khoa bên ngoài. Đây là nhà lá mái có hai lớp cửa, một kiểu nhà phòng thủ (chống giặc tàu Ô) rất đặc trưng ở đảo Lý Sơn.
 
* Kiến trúc nhà ở của người Hrê
 
 Mỗi làng người Hrê cư trú thường có khoảng vài chục ngôi nhà sàn. Nhà sàn của người Hrê được xây dựng quần tụ theo chiều ngang của triền chân đồi. Các ngôi nhà được bố trí theo từng lớp từ thấp đến cao. Người Hrê gọi làng của minh là plây, cách gọi này giống với cách gọi của các dân tộc Bana, Giarai,… Làng xóm Hrê được xây dựng dọc theo các con sông. Mặc dù tộc người Hrê cư trú trên địa vực rộng lớn của vùng núi rừng miền Tây Quảng Ngãi, song họ vẫn bảo lưu được tập quán xây dựng làng theo lối riêng của dân tộc mình. Làng Hrê có chung những đặc điểm xây dựng theo địa hình cảnh quang, được bố trí kiến tạo ven theo triền chân đồi, cao ráo, quang đãng. Người Hrê luôn luôn chọn vị trí làng của họ ở về phía Đông, Tây hoặc phía Nam triền chân đồi. Họ lấy quả đồi nơi cư trú hoặc những dãy núi xung quanh để che chắn ngọn gió Bấc của mùa Đông khắt nghiệt. Làng luôn quay mặt về phía có gió nồm để được thoáng mát, đón ánh sáng mặt trời buổi sáng để đề phòng và trừ khử dịch bênh. Làng Hrê luôn luôn xây dựng liền kề với vùng ruộng canh tác.
 
Người Hrê làm nhà vào thời gian tháng 8 và tháng 9 trong năm. Các loại gỗ rắn chắc như gỗ ké, gỗ mít… được ưa chuộng, dùng làm cột sàn, cột vách, kèo, trính. Người Hrê thường đốn cây gỗ vào ngày 29, 30 (âm lịch) của các tháng Hè và Thu, bởi vì trong thời điểm này nhựa thân trở nên ít, khiến cho các thớ gỗ không bị mối mọt phá hoại. Khi xây dựng các nhà sàn, người Hrê đặc biệt chú ý không để đường đi trong làng đêm thẳng vào cửa giữa (mang), cửa trước (móc inh chin) và cửa sau (móc inh doong), vì điều đó sẽ xảy ra đau ốm, bệnh tật cho gia chủ hoặc những điều không hay khác cho gia đình.
 
 Thời gian để dựng hoàn thành một ngôi nhà sàn Hrê trong vòng từ 4 đến 6 ngày theo một số thao tác, quy trình như sau:
 
Bước 1: dựng 2 hàng cột sàn và cột vách
 
Bước 2: dựng bộ khung nhà gồm: gác trính, xà qua các đầu cột theo kiểu ngoài buộc dây mây, đồng thời gác tay kèo ở hai đầu hồi, sau đó gác đòn tay mái nằm theo chiều dọc của ngôi nhà.
 
Bước 3: vỏ mái gồm ron, mè kết cấu theo lối buộc nẹp ngang dọc song song nhau và được làm trước ở dưới mặt đất, sau đó đưa lên buộc vào các đòn tay mái để làm vỏ mái.
 
Bước 4: Tạo dựng sàn bằng hệ thống cây ngang dọc, có kết cấu với nhau hết sức chặt chẽ qua hệ thống dây buộc vào cột nhà và cột nâng sàn, sau đó mặt sàn được trải lớp giát sàn bằng tre ken mây phẳng phiu. Vách nhà được làm bằng tre đan phên ken dày, hoặc dùng cây rừng tròn, có đường kính 2- 2,4cm ghép sát vào nhau lấy dây mây buộc chặt.
 
 
 
Do kết cấu kiểu dạng và lắp ráp như trên nên khi dỡ nhà, người Hrê thao tác rất nhanh. Trước tiên họ tháo rời mái nhà bằng cách cắt các dây buộc hai mái liên kết với nhau qua đòn giông (rú qua) và tách rời mái với phần đầu cột và vách nhà, sau đó họ tách khiêng đi hai mái rời của ngôi nhà đi đến nơi mới. Mặt bằng sinh hoạt của nhà người Hrê gồm hai đầu tra sàn ngoài là nơi tiếp khách, sinh hoạt của ông bà chủ nhà. Bên trong tính từ cột thiêng trở đi là nơi ở của hai vợ chồng chủ nhà, tiếp đến là con lớn đến con nhỏ. Nhà Hrê có 2 cửa chính ở hai đầu tra và một cửa mang ở hông nhà.
 
Một vấn đề quan trọng khác không thể không đề cập trong kết cấu kiến trúc nhà sàn của người Hrê là cách thức buộc mây để liên kết các bộ phận kiến trúc của ngôi nhà sàn. Phương pháp liên kết bằng cách thức buộc mây là phương pháp phổ biến, sáng tạo, độc đáo và là đặt trưng trong ngôi nhà sàn Hrê. Trên mái nhà của người Hrê còn có biểu tương hai cặp sừng trâu bằng rơm.
 
* Kiến trúc nhà ở của người Cor
 Nhà ở dân gian truyền thống của người Cor là nhà xlúp, là kiểu nhà dài của một làng cùng cư trú. Hiện nay kiểu nhà này không còn nữa, họ đã tách ở riêng theo kiểu nhà trệt. Nhà sàn xưa kia của người Cor giống một toa tàu hỏa. Dân làng góp sức làm chung ngôi nhà, sau đó từng hộ được chia diện tích để phù hợp với nhu cầu sử dụng. Bao giờ vị trí máng nước đổ về cũng ở phía đầu nhà. Ngôi nhà có thể được nối dài thêm khi có những gia đình đến nhập cư sau. Dưới gần sàn dùng xếp củi, nhốt lợn, gà; trên sàn thì người ở. Ngoài ra, nhà còn có 2-3 sàn phụ để phơi lúa, cất đồ đạc, sấy thuốc lá…
 
Hiện nay, những ngôi nhà trệt có từ 3- 5 hộ hay 6-7 hộ cùng cư trú còn khá phổ biến. Đó là kiểu nhà xlúp truyền thống nay được biến dạng qua kiểu nhà trệt vách đất hoặc vách bằng tre nứa nhưng vẫn giữ nguyên không gian cư trú như xưa của các hộ gia đình. Mỗi hộ cư trú bên trong ngôi nhà dài đó được tách riêng bằng các bức ngăn làm từ gỗ rừng hay tre nứa đập giập. Ngôi nhà này tuy có cửa ra vào trổ ở mặt bên, nhưng lối đi lại dọc từ đầu đến cuối nhà vẫn giữ nguyên. Lối kết cấu vì cột còn thông dụng, tương tự ở các dân tộc miền núi khác trong khu vực Trường Sơn- Tây Nguyên. Đặc biệt, trong nhà có bộ phận sạp ngủ, là sự lặp lại cách làm sàn.
 
Mặt bằng sinh hoạt chính trong ngôi nhà truyền thống của người Cor chia làm ba phần theo chiều dọc nhà đó là: truôk, tum và gươl. Truôk là đường hành lang chạy suốt từ đầu đến cuối nhà, hai phía đều thông ra ngoài qua cửa. Tum là phần không gian sinh hoạt cho từng hộ, ở đó có đặt bếp lửa, chỗ ngủ của các cặp vợ chồng, con cái và các vật dụng đồ đạc. Từ các buồng đó đều mở cửa trông ra truôk. Đối diện với Tum quan truôk và gươl- phần diện tích để thoáng, không ngăn thành các buồng. Nơi đây chủ yếu dùng làm chỗ sinh hoạt cho đàn ông: tiếp khách, uống rượu, cúng, ngủ, gõ chiêng,…
 
 Hình thức nhà xlúp của người Cor là kiểu kiến trúc khá đặc biệt ở vùng Trường Sơn- Tây Nguyên, có thể tìm thấy bóng dáng ngôi nhà này ở một số tộc người trên các quốc đảo vùng Thái Bình Dương. Nhà xlúp là hình thức quần cư của cả cộng đồng làng trong không gian nóc nhà dài. Ở đây khái niệm làng- nóc dung hợp làm một. Hình thái cư trú nhà dài truyền thống của người Cor xưa kia là một cách bảo tồn cộng đồng trước sự tác động bất lợi từ bên ngoài.
 
 Ngày nay, hầu hết đồng bào Cor đã và đang chuyển sang làm nhà trệt vách ván hoặc vách nứa, mái lợp tranh hay lá gồi, một số gia đình giàu có còn thuê thợ đồng bằng làm theo kiểu nhà xuyên trính ở đồng bằng miền Trung.
 
  * Kiến trúc nhà ở của người Ca Dong
 
 Đơn vị cư trú của tộc người Ca Dong là plây pla (làng xóm). Các ngôi nhà sàn trong làng được xây dựng tùy theo địa hình nhưng buộc phải nằm theo cùng một hướng, không được cắt phá nhau. Vì vậy nhìn từ xa các ngôi nhà sàn Ca Dong phân bố theo từng lớp trên sườn đồi trông rất đẹp.
 
Do điều kiện sinh sống trên núi cao nên việc chọn đất làm nhà lập làng của người Ca Dong là một việc không đơn giản. Họ lập làng trên các khu vực đất bằng phẳng ở vùng triền đồi, chân núi, triền đất cao trong vùng thung lũng. Làng phải gần vùng ruộng, rẫy canh tác, phải tránh lập làng gần kề suối, sông vì có nhiều rũi ro vào mùa mưa lũ. Đặc trưng tập quán cư trú xưa kia của người Ca Dong là theo hình thái cư trú nhà sàn dài của một đại gia đình phụ hệ, nghĩa là có nhiều thế hệ ông bà, cha mẹ, cháu chắt cùng cư trú trong một ngôi nhà. Sự phân bố không gian của các tiểu gia đình trong ngôi nhà được tính từ cây cột thiêng cạnh bếp lửa. Ngày nay, hình thái cư trú kiểu này còn ít, mà thay vào đó là hình thái cư trú các tiểu gia đình.
 
 Nhà sàn người Ca Dong ở hai đầu nhà đều có cửa và hai cầu thang lên xuống. Kết cấu kiến trúc nhà sàn người Ca Dong cũng như các dân tộc Cor, Hrê là ngôi nhà thường chia là 3 phần: cột sàn, vách và sàn, mái. Bộ khung nhà của người Ca Dong gồm cột nhà, cột sàn, xuyên, trính, kèo làm bằng các loại gỗ tốt. Kết cấu kiểu vì cột. các bộ phận kiến trúc liên kết với nhau bằng phương pháp ngoãm và buộc mây. Vách và sàn làm bằng nứa lồ ô. Mái nhà lợp tranh. Không gian bên trong ngôi nhà được bố trí: phía đầu nhà là bếp chính của gia đình, để dụng cụ nấu nướng và bát đĩa- đây là một trong những vị trí thiêng trong nhà. Dịch sang bên cạnh là cây cột thiêng dùng để cúng thần linh. Tính từ cây cột thiêng, không gian sinh hoạt trong ngôi nhà được phân chia như sau: gian cạnh bếp chính và cột thiêng là nơi ngủ của cha mẹ, tiếp đến là nơi ngủ của con cái trong gia đình từ lớn đến nhỏ. Vị trí ở gian giữa có cửa hông là nơi tiếp khách và khách ngủ ở đó. Người Ca Dong khi ngủ quay đầu về hướng thấp. Trong nhà, một bên vách đặt hàng ché đựng rượu, phía trên là giàn để dụng cụ và bắp trái. Đặc biệt ở trên vách của gian tiếp khách, chủ nhà thường để cung tên, xương má của các loài thú săn bắn được./. 

Theo Website UBND tỉnh Quảng Ngãi

 

 

 

 


.