Vùng biển Quảng Ngãi: Một thời giao thương sầm uất

03:11, 17/11/2019
.
(Báo Quảng Ngãi)- Đã có một thời vùng ven biển Quảng Ngãi, đặc biệt ở Bình Châu, Dung Quất và Thu Xà, việc giao thương thật sự sầm uất, nếu không nói là sầm uất vào loại bậc nhất ở nước ta cách đây một vài thế kỷ.
Trong nhiều năm qua, Quảng Ngãi đã phát hiện và khai quật 3 tàu cổ đắm ở vùng biển Bình Châu và Dung Quất. Năm 2013, khai quật tàu cổ tại Bình Châu và năm 2019 khai quật tàu cổ tại Dung Quất. Nhờ các chữ Hán được ghi trên các hiện vật tìm thấy mà chúng ta có thể xác định niên đại các tàu cổ đắm này, cũng như nhận diện con đường giao thương trên biển, việc giao thương tại vùng cửa biển Sa Cần, Sa Kỳ. 
 
Từ những con tàu cổ 
 
Tại vùng biển Bình Châu, sau khi khai quật, các nhà khảo cổ đã tìm thấy những đồ gốm sứ thời Nguyên, như: Các loại đồ gốm men ngọc, trong số đó có những dòng chữ Hán khắc chìm như: Kim ngọc mãn đường trường mệnh phú quý, hoặc Thanh Hoa, Cát. Các loại đồ gốm men nâu có những dòng chữ ghi lò sản xuất, như: Đức chính nhuận, Ngô nhậm hiệu, Lão điếm, Nghĩa.
 
Một số đồ sứ hoa lam thời Minh, có ghi niên đại sản xuất, bao gồm: Đại Minh Tuyên Đức niên chế, Đại Minh niên chế, Tuyên Đức niên chế, Chính Đức niên tạo; hoặc những dòng chữ khắc chìm Trường mệnh phú quý, Vạn phúc du đồng... 
 
Khai quật tàu cổ ở vùng biển Bình Châu (Bình Sơn).                                                                                                                                                                                                                                                                                                          Ảnh: TL
Khai quật tàu cổ ở vùng biển Bình Châu (Bình Sơn). Ảnh: TL
 
Tại vùng biển Dung Quất, các nhà khảo cổ cũng đã trục vớt nhiều mảnh vỡ các loại bát, đĩa sứ hoa lam, đĩa sứ men trắng, trong số đó có những mảnh vỡ ghi các dòng chữ Hán, như: Vĩnh bảo trường xuân, Vạn phúc du đồng, Thực lộc vạn chung, Trường xuân giai khí, Vĩnh hanh giai khí, Phúc thọ khang ninh... và có 6 mác hiệu xuất hiện từ đời Gia Tĩnh (1522 - 1566) đến đời Vạn Lịch (1573 - 1620) như: Đại Minh Tuyên Đức niên chế, Đại Minh Tuyên Đức niên tạo, Tuyên Đức niên chế, Tuyên Đức niên tạo, Đại Minh Thành Hóa niên chế, Chính Đức niên chế, Đại Minh Gia Tĩnh niên chế, Đại Minh Long Khánh niên chế, Đại Minh Vạn lịch niên chế, Vạn lịch niên chế...
 
Theo TS.Nguyễn Đình Chiến, một chuyên gia từng tham gia khai quật các con  tàu cổ ở Quảng Ngãi, thì các đồ gốm sứ tìm thấy trong tàu cổ đắm ở Dung Quất với các dòng niên đại nêu trên có thể xác định các hiện vật trong tàu, dù đều là đồ gốm sứ thời Minh, nhưng lại trải dài từ thời Tuyên Đức và muộn nhất là đến thời Vạn Lịch, nghĩa là cách nhau cả gần 200 năm.
 
Vì vậy, có thể khẳng định con tàu cổ khai quật ở vùng biển Bình Châu và tàu cổ khai quật ở vùng biển Dung Quất đều có niên đại từ thời Gia Tĩnh đến đời Vạn Lịch. Đó là chưa kể, qua khảo sát, còn có hàng chục con tàu cổ bị chìm đắm mà chưa có cơ hội tổ chức khai quật.
 
Từ điều này có thể cho phép ta suy đoán vào khoảng thời gian gần 200 năm này, tại vùng biển Quảng Ngãi đã là nơi giao thương gốm sứ khá thịnh hành, là nơi dừng chân buôn bán của các thương nhân trên con đường tơ lụa trên biển. 
 
Đến một văn bia và vài trang sử liệu 
 
Việc giao thương trên biển không chỉ thể hiện qua dấu tích các tàu cổ đắm ở vùng biển Bình Châu, Dung Quất, mà còn trong các tài liệu Hán Nôm ở Thu Xà (Nghĩa Hòa, Tư Nghĩa), đặc biệt trong văn bia ghi chép việc đóng thuế tại cảng Thu Xà vào năm Tự Đức thứ 32 (1879).
 
Văn bia này lưu tại Hội quán Triều Châu có tên gọi là Triều thương công sở bi ký, có ghi chép khá kỹ về các loại thuyền buôn phải đóng thuế mỗi khi ra vào cảng, hoặc neo đậu ngoài cảng Thu Xà; số tiền phải đóng khi vào cảng lần đầu; thuế phải nộp khi buôn đường cát, buôn dầu; việc đặt cân tại công sở để thương nhân tiện sử dụng... 
 
Hàng nghìn cổ vật quý bằng gốm sứ được tìm thấy trong quá trình khai quật tàu cổ bị đắm tại biển Bình Châu. Ảnh: TL
Hàng nghìn cổ vật quý bằng gốm sứ được tìm thấy trong quá trình khai quật tàu cổ bị đắm tại biển Bình Châu. Ảnh: TL
 
Trong Phủ biên tạp lục, Lê Quý Đôn có ghi chép về số tiền thuế tại các cửa biển thuộc xứ Quảng Nam vào lúc ông được cử làm Hiệp trấn Thuận Hóa. Tiền thuế thu ở các cửa thuộc phủ Thăng Hoa: Cửa biển Đà Nẵng là 64 quan, cửa Đại Chiêm là 75 quan...; thuộc phủ Quảng Ngãi: Cửa Sa Kỳ là 560 quan 3 tiền, cửa Đại Cổ Lũy là 150 quan, cửa Mỹ Ý (Á) là 37 quan 5 tiền, cửa Thái Cần là 84 quan 5 tiền; thuộc phủ Quy Nhơn: Cửa Thị Nại là 470 quan; thuộc phủ Phú Yên: Cửa Ô Loan là 62 quan, cửa Xuân Đài là 31 quan... 
 
So sánh số liệu thu thuế tại xứ Quảng Nam vào năm Quý Đôn viết sách này có thể thấy: Số tiền thuế thu tại các cửa biển ở phủ Quảng Ngãi là nhiều hơn cả, đặc biệt là ở cửa Sa Kỳ. Lê Quý Đôn cũng cho biết: Thuận Hóa, vùng đất có thủ phủ là kinh đô Phú Xuân, nhưng tiền thuế ở cửa biển Tư Hiền cũng chỉ có 410 quan, thuế thu ở cửa Eo thì chỉ có 25 quan (Lê Quý Đôn toàn tập, tập 1: Phủ biên tạp lục, Nxb Khoa học xã hội, 1977, tr 128, 219).
 
Chỉ qua dấu vết những con tàu cổ ở vùng biển Quảng Ngãi, một văn bia thời Tự Đức, vài trang sử liệu của Lê Quý Đôn, cũng đã thấy: Suốt 6 - 7 thế kỷ vùng biển Quảng Ngãi là nơi diễn ra việc buôn bán khá sầm uất, nếu không nói là sầm uất hơn các cửa biển khác trong xứ Quảng Nam xưa (bao gồm các tỉnh, thành từ Đà Nẵng đến Phú Yên ngày nay), lẫn dải đất miền Trung lúc bấy giờ.
 
            TS. NGUYỄN ĐĂNG VŨ
 
 
 
 

.