Exênhin: Hai năm thơ cuối cùng

09:11, 10/11/2014
.

(Báo Quảng Ngãi)- Những nhà thơ lớn của nước Nga thường có số phận rất kỳ lạ. Hầu hết họ chết trẻ, chết khi năng lượng sáng tạo tuôn trào mạnh mẽ nhất. “ Sống trẻ chết trẻ như những nhà thơ Nga” - trong bài thơ “Kỷ niệm về những câu thơ Nga” của tôi có một câu thơ như vậy. Đó là điều khiến tôi kinh ngạc và thán phục nhất khi bước vào thế giới thơ ca của những nhà thơ Nga.

Không chỉ Exênhin, nhiều nhà thơ Nga khác luôn cảm thấy sự dồn nén đến nghiệt ngã của số phận khi họ chấp nhận thơ ca của mình như một sứ mệnh và như một bi kịch. Thơ quả thật ghê gớm đối với những nhà thơ Nga, dù thơ họ hết sức dịu dàng và nhân hậu. Với Exênhin, số phận và thơ ca của ông lại càng đặc biệt. “Cha của tôi- một dân cày đích thực /Còn tôi là con cái bác nông dân”. Exênhin đã “thật thà khai báo” lý lịch của mình như vậy. Và toàn bộ thơ ca của ông đã chứng thực cho “lời khai” ấy.

Exênhin cùng nàng vũ công nổi tiếng Duncan Isadora.
Exênhin cùng nàng vũ công nổi tiếng Duncan Isadora.


Đó là “nhà thơ nông dân” theo nghĩa đẹp nhất của danh xưng này. Một nhà thơ nông dân Nga, sinh quán vùng Ryazan, lại là một nhà thơ thế giới, một công dân toàn cầu, một người mà thơ ca của ông được người Nga, và không chỉ người Nga, đọc nhiều chỉ sau Kinh Thánh. Thơ Exênhin, quả vậy, đã là “Kinh Thánh của tâm hồn Nga”, nó dịu dàng, phóng khoáng, mộc mạc mà đầy bí ẩn.

Với Exênhin, hai năm 1924 và 1925 là đặc biệt quan trọng. Thơ ông dường như tuôn trào mãnh liệt và đau đớn trong hai năm cuối định mệnh ấy.  

“Chẳng hiểu sao tôi rưng rưng nước mắt
Và nhếch cười, hồn héo hắt, mông lung-
Cứ như đây là lần thấy cuối cùng
Căn nhà gỗ, con chó nằm trên bục”.        
    (24.9.1925)

Đoạn thơ này nằm trong bài thơ được ghi sáng tác ngày 24.9.1925, chỉ 3 tháng trước khi Exênhin tự mình “khép cửa”, cánh cửa cuộc đời đầy giông bão của ông. Hình ảnh con chó, cây bạch dương, hoa tuyết, căn nhà gỗ(izba), cỗ xe tam mã, quán rượu, những con gà trống gáy sớm, chim bạc má, dây trường xuân…những hình ảnh của làng quê Nga thường lung linh và da diết trong thơ Exênhin, như thể chúng được sinh ra là dành cho thơ ông, và chính Exênhin đã trao cho chúng linh hồn, khiến chúng trở nên bất tử trong thơ ông.

Nhà thơ Exênhin khi mất.
Nhà thơ Exênhin khi mất.


Tôi vẫn thường nghĩ, vì sao nước Nga lại có Exênhin? Những nhà thơ nông dân, xuất thân từ nông dân và trở nên nổi tiếng, thế giới có không ít. Nhưng không có nhà thơ-nông dân nào có số phận kỳ lạ như Exênhin, có những bài thơ về làng quê xuất thần như thơ Exênhin, và thơ càng mộc mạc lại càng bí ẩn, như thơ Exênhin. Nếu như văn hào M. Gorki mệnh danh Xéc-gây Exênhin là “Một thứ cơ quan mà thiên nhiên sáng tạo ra chỉ để làm thơ, để thể hiện nỗi buồn vô tận của ruộng đồng”, thì ta phải hiểu, tâm hồn nhà thơ ấy và tâm hồn của ruộng đồng Nga là một, hoặc như một. Tôi đã có dịp chiêm ngưỡng những cánh đồng Nga, những cánh đồng đất đen trải ra vô tận và buồn vô tận. Nỗi buồn ấy là tự nhiên, hồn hậu và lành sạch. Cho tới bài thơ tuyệt mệnh cuối cùng, thơ Exênhin vẫn trong trẻo làm sao, dịu dàng làm sao! Hệt như những cánh đồng Nga.

“Tuyết đã tan, bị nghiền thành bụi nhỏ
Từ trên cao trăng lạnh chiếu mơ màng
Tôi lại gặp rìa làng thân yêu cũ
Xuyên bão bùng, thấy ngọn lửa bên song
Lũ chúng ta bọn không nhà không cửa
Cần nhiều chăng? Cũng dễ hiểu thôi mà
Tôi ca ngợi. Cơm gia đình gặp bữa
Thấy lại mẹ già sau năm tháng vời xa…”


Có thể thấy truyền thống của thơ Puskin, thơ Lermantov tuôn chảy trong thơ Exênhin. Không một nhà thơ nào, dù là thiên tài, lại từ trên trời rơi xuống cả. Exênhin cũng vậy. Cả một truyền thống vĩ đại của thơ ca Nga đứng sau lưng ông, dù thơ ông là chỉ của ông thôi. Sáng tác bằng bản năng, bằng linh cảm, nhưng không phải vì thế Exênhin từ chối tiếp thu di sản thơ ca, từ chối văn hóa đọc. Là một nhà thơ nông dân, nhưng số phận đã đưa Exênhin đi tới nhiều nơi trên thế giới, tiếp xúc với nhiều nền văn hóa khác nhau. Có thể, như Lev Trotsky đã viết: “Anh(Exênhin) hấp thụ Têhêran [Teheran] sâu sắc hơn Niu Oóc nhiều, và cái trữ tình hoàn toàn nội tâm của anh, có cội rễ từ Ryadan [Ryadan], đã tìm thấy ở Ba Tư (Iran) nhiều mối tương thích hơn là ở các trung tâm văn hóa Châu Âu và Châu Mỹ”. Cho dù như thế, ngay cả khi viết những bài thơ rất hay về Ba-Tư, về một cô gái Sa-ga-ne với khăn choàng mặt, thì Exênhin vẫn như đang viết về vùng quê Ryazan và cô gái quê Ryazan của ông với một tình yêu nồng nhiệt và ngây thơ. Càng đi xa quê hương, thơ Exênhin càng thấm đẫm hương vị đồng quê Nga. Có thể nghe mùi cỏ khô của những cánh đồng Ryazan trong thơ Exênhin khi ông viết về những vùng đất lạ:

 “Dù Si-ra có xinh đẹp tuyệt trần
Cũng chẳng hơn gì thung lũng Ryazan”


Mãi mãi, Exênhin và thơ ca của ông thuộc về những cánh đồng đất đen buồn tẻ của nước Nga mà ở đó đã mọc lên cây bạch-dương-thơ thiên tài mang tên Xéc-gây Exênhin.

Cách đây gần ba chục năm, tôi có viết được một bài thơ về Exênhin, nhan đề “Gửi Xéc-gây Exênhin”. Năm 2004, nhân được mời tham dự Liên hoan thơ quốc tế Rotterdam( Hà Lan) lần thứ 35, và nhân được Ban tổ chức Liên hoan thơ ra một đầu đề thú vị: “Nếu phải bị đày ra một hoang đảo mà chỉ được mang theo một quyển sách, bạn sẽ mang quyển sách gì? Bạn có bài thơ nào về quyển sách ấy không?” Tôi đã chọn câu trả lời: “Quyển sách ấy là một tập thơ Xéc-gây Exênhin”, và chọn bài thơ “Gửi Xéc-gây Exênhin” cho Ban tổ chức dịch ra tiếng Hà Lan và tiếng Anh. Bài thơ khi diễn đọc tại Nhà hát Lớn Rotterdam, với phụ đề tiếng Hà Lan và tiếng Anh chiếu trên màn hình, đã gây được ấn tượng tốt, được những khán giả yêu thơ Hà Lan hoan nghênh. Đó là điều thật bất ngờ đối với tôi. Nó thêm một lần chứng minh: Exênhin và thơ ca của ông là thuộc về thế giới, và được yêu mến ngay ở thời đương đại này.

“Như hòn đá ném thẳng xuống biển khơi
thơ anh gợi những vòng tròn thăm thẳm
Exênhin một nửa mùa thu nước Nga chìm đắm
theo con tàu người thủy thủ lang thang...”

(Trích bài thơ “Gửi Xéc-gây Exênhin”)     

 

Thanh Thảo


 


.