Tiếng Việt: Vấn đề tranh cãi - Phiên âm, chuyển tự hay để nguyên dạng?

08:01, 01/01/2013
.

Một vấn đề nữa vẫn còn gây tranh cãi, đó là trong tiếng Việt, nên phiên âm, chuyển tự hay để nguyên dạng tiếng nước ngoài?


Ở đây, ta không bàn đến việc dùng tiếng Anh trong biển hiệu quảng cáo hay thương hiệu hàng hoá mà là việc sử dụng tiếng Việt trên báo chí. Vì nhiều ý kiến cho rằng phải phiên cách đọc, như thế mới là trong sáng để phục vụ cho đông đảo quần chúng.
 

 

Giao tiếp ngôn ngữ được thực hiện qua 2 “kênh” khác nhau: nói bằng lời (phát âm truyền qua không gian) và đọc bằng mắt (qua tự dạng, nét chữ). Đọc qua kênh thị giác là một cách cảm nhận văn bản phổ biến đối với mọi dân tộc trên thế giới kể từ khi con người phát minh ra chữ viết. Tiếng Việt văn hoá hình thành từ khi có chữ viết. Tên nước ngoài vào Việt Nam (trừ tiếng Hán sẽ đọc theo âm Hán Việt) thường chủ yếu theo các hệ chữ: Xlavơ (như Nga, Bungari và một số nước cộng hoà thuộc Liên Xô cũ), Latin (gồm các nước nói tiếng Pháp, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha - ngữ hệ Latin, các nước thuộc Liên hiệp Anh - ngữ hệ Angle-Saxon, Đức - ngữ hệ German), Sanscrit … Với tên riêng viết theo hệ chữ Xlavơ, chúng ta phải chuyển tự (chuyển từ mẫu tự này sang con chữ tương đương ở mẫu tự khác, cụ thể là theo bảng chữ cái Latin có ở hầu hết các máy chữ). Còn với các tên viết theo mẫu tự Latin thì cách tốt nhất là để nguyên dạng.

Bởi như trên đã nói, giao tiếp bằng mắt phải lấy tự dạng làm căn cứ. Việc phiên cách đọc sẽ dẫn đến hệ quả đầu tiên là đưa ra một cách đọc chủ quan (đúng và sai rất mong manh). Không ai dám chắc là mình sẽ phiên đúng một từ nào đó theo nguyên ngữ (tên của cựu Tổng thống R. Reagan mà người Mỹ cũng còn có 2 cách đọc, thủ đô Moskva (Nga) sẽ được đọc khác nhau giữa tiếng Nga, tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Đức, tiếng Trung (Moskva, Moscow, Moscou, Moscau). Hệ quả thứ hai là người đọc mất cơ sở để truy tìm, chẳng hạn, trừ những cái tên quá quen thuộc như (cầu thủ): Messi, Ronaldo, Kaka, Rooney, Arshavin… khi phiên âm ta còn nhận được, chứ đa số tên khác, rất khó nhận diện (chẳng hạn, Pơ-phap = Pfaff, Cơ-rao = Crouch, Hât-lơ-xtôn-nơ = Huddlesstones…).

Để nguyên dạng không làm ảnh hưởng nhiều tới việc cảm thụ. Chính sự nguyên dạng này giúp người đọc theo dõi dễ dàng, không bị gây trở ngại, dùng quen thì điều đó trở nên rất bình thường. Vì có nhiều tên, do có nhiều cách phiên khác nhau mà người đọc chịu không biết đó là ai.

Cách đây khoảng 7 năm (năm 2005), trong 1 hội thảo về vấn đề này. Một nhà khoa học đã nói gay gắt: “Các anh cứ ủng hộ việc phiên âm tiếng nước ngoài để phục vụ đa số quần chúng, vì nếu để nguyên dạng thì khác nào đánh đố dân thường”.

Theo tôi, nghĩ như vậy là chúng ta đánh giá thấp quần chúng. Quần chúng giờ khác xa rồi. Chẳng có ai đọc báo mà đọc to thành tiếng cả. Nếu cần đọc, họ sẽ đọc theo cách của mình. Có thể chưa chuẩn (mà khó có chuẩn) cũng chẳng hề gì.

Chúng ta chấp nhận cách để nguyên dạng như một “giải pháp tình thế”, giúp cho tiếng Việt ổn định và phát triển đúng hướng. Một văn bản có lẫn vài tên riêng tiếng Anh không hề làm giảm giá trị tiếng Việt mà còn thể hiện tiếng Việt chấp nhận được một biến thể và chứng tỏ trình độ người nói tiếng Việt được nâng cao. Phát triển đúng hướng là tôn trọng những chuẩn mực (từ vựng, ngữ âm, chính tả,…).

Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt không thể thoát li vấn đề chuẩn hoá. Mà chuẩn hoá có nghĩa là “lựa chọn một biến thể hợp lí trong những biến thể đang tồn tại”. Nhưng thế nào là chuẩn? Đó là một phạm trù mang tính xã hội. Vì chuẩn của ngôn ngữ tự nhiên không thể căn cứ vào lí lẽ thuần tuý logic, là ý muốn chủ quan, là những áp lực mang tính quyền uy… Chuẩn ngôn ngữ là một quá trình kiểm nghiệm, sàng lọc, chọn lựa. Có những chuẩn cũ bị phá bỏ để thay bằng chuẩn mới và nhiều khi cả 2 chuẩn này song song tồn tại trong một thời gian (lưỡng khả). Chuẩn là cái đã được định hình, truyền thống nhưng có khi nó lại hình thành từ một “sự vi phạm chuẩn”. Sự sáng tạo ngôn từ của các nhà văn, nhà thơ là một ví dụ. Không ít những lối nói “phá cách” của các nhà văn đã đem lại hiệu ứng bất ngờ và trở thành một nhân tố mới, giúp cho ngôn ngữ phát triển đa dạng hơn.

Chuẩn luôn tôn trọng tính cộng đồng và dân chủ. Tuy nhiên, chính từ cách hiểu “dân chủ” kia mà hiện tại tiếng Việt đang đứng trước nguy cơ của sự vi phạm. Điển hình là cách nói lóng trong học đường. Đầu tiên chỉ nói cho vui hoặc nói trong phạm vi hẹp, rồi nhanh chóng lây lan trong diện rộng. Thí dụ,  gọi bố mẹ là “tiền bối lỗi thời”, xe máy là “con nghẽo”, tiền bạc là “máu khô, tiền âm phủ”, bạn gái là “gà tóc nâu”, bạn trai là “xe ôm”, bị kiểm điểm là “chào cờ thứ hai”, ăn điểm kém là “vác gậy Trường Sơn”,… Rồi nói tiếp âm các từ với các tên nổi tiếng: yết kiêu vừa chứ, lỗ tấn to rồi, chớ hồng lâu mộng,… Đáng ngạc nhiên (và đáng sợ) hơn cả là ngôn ngữ chat (tán gẫu trên mạng). Nếu ai đã từng vào mạng, xem các trang blog, email… thì sẽ thấy chính tả tiếng Việt biến dạng như thế nào. Có thể nói là bát nháo, thiên hình vạn trạng.

Nhiều người cho rằng mạng ở nơi nào cũng thế. Sang Mỹ, Hàn Quốc, Nga, giới trẻ có khi còn “quậy” hơn. Ngôn ngữ chat của họ “khủng” hơn nhiều (đó là một trò chơi tiêu khiển mà!). Nhưng dù là giải trí thì cái gì cũng phải có chừng mực. Hơn nữa, cách dùng theo kiểu tự sáng tạo như vậy dễ bị lệch lạc. Cái lạ nhiều khi bị giới trẻ nhầm lẫn với cái tôi và “cái sáng tạo”, “cái hay”. Những cái mới lạ đó rất dễ lây lan, khi đã lây nhiễm rồi, nó cứ như một “con đỉa” bám rất chặt, rất khó gỡ bỏ. Thực tế người ta đã từng phát hiện ra rất nhiều lỗi “nằm ngoài kiến thức”. Đó là việc viết tắt, viết hoa, viết kèm tiếng nước ngoài vô lối, viết theo ngôn ngữ biến dạng xuất hiện (nhiều ít khác nhau) ở các văn bản học đường đòi hỏi phải tuân thủ các nguyên tắc trường quy. Và mức độ vi phạm lỗi vẫn còn đáng ngại… Đáng tiếc là nhà trường, giáo viên, bố mẹ các em ít quan tâm và nhắc nhở.

Nhìn lại cả quá trình lịch sử, tiếng Việt hôm nay đã thay đổi rất nhiều về diện mạo: giàu hơn và đa năng hơn trong việc thể hiện công cụ giao tiếp ở mọi lĩnh vực. Tiếng Việt chưa đến nỗi rung chuông báo động về sự “mất trong sáng trầm trọng” nhưng rõ ràng, tiếng Việt có nhiều vấn đề phải quan tâm, nếu không, ngôn ngữ yêu quý này có nguy cơ bị “vẩn đục” do chính thái độ của chúng ta.

“Ngôn ngữ là linh hồn dân tộc”. Câu nói của nhà Ngôn ngữ học Đức W. Humboldt một lần nữa với chúng ta như một lời nhắc nhở về lòng tự hào và bổn phận của tất cả những ai thuộc cộng đồng tiếng Việt hôm nay.

 


PGS-TS Phạm Văn Tình
Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam

Theo Chinhphu.vn


.