Lịch sử ngày Quốc tế Phụ nữ 8/3: "Bánh mì và hoa hồng"

10:03, 07/03/2013
.

(QNĐT)- Ngày Quốc tế Phụ nữ là thành quả của đấu tranh lâu dài và lặng lẽ của hàng triệu phụ nữ trên thế giới. Lịch sử của ngày Quốc tế Phụ nữ bắt đầu từ năm 1857 đến 1911.
 
 
Cũng như ở nhiều nước tư bản chủ nghĩa khác, lao động phụ nữ và trẻ em ở Mỹ bị coi rẻ, đồng lương thấp kém, điều kiện ăn ở thiếu thốn. Công nhân đã bị bóc lột nặng nề thì ngường công nhân phụ nữ lại càng vất vả, cùng cực. Ngày 8/3/1857, các công nhân ngành dệt chống lại những điều kiện làm việc khó khăn và tồi tàn của họ tại Thành phố New York: 12 giờ làm việc một ngày. Hai năm sau, cũng trong tháng 3, các nữ công nhân Mỹ trong hãng dệt thành lập công đoàn (syndicat) đầu tiên đã được bảo vệ và giành được một số quyền lợi.
 
 
Ảnh minh họa. Nguồn: SGGPO
Ảnh minh họa. Nguồn: SGGPO

 

Ngày 8/3/1899, nữ công nhân ngành dệt và ngành may ở Chicago đã tiến hành bãi công đòi tăng lương, giảm giờ làm. Mặt dầu bị bọn cầm quyền khủng bố dữ dội, chị em công nhân Chicago được công nhân toàn quốc ủng hộ vẫn không chịu lùi bước. Họ buộc chủ phải chấp nhận yêu sách của họ nhằm cải thiện điều kiện lao động và sinh hoạt.

 
Cuộc đấu tranh của nữ công nhân Mỹ đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào phụ nữ lao động trên thế giới, đặc biệt phụ nữ ở nước Đức, một nước có kỹ nghệ tiên tiến lúc bấy giờ. Trong phong trào đấu tranh giai cấp lúc đó đã xuất hiện hai nữ chiến sĩ lỗi lạc, đó là bà Cla-ra Zet-kin (Đức) và bà Rô-gia Luxembourg (Ba Lan).

Nhận thức được sự mạnh mẽ và đông đảo của lực lượng lao động nữ và sự cần thiết phải có tổ chức, phải có lãnh đạo để giành thắng lợi cho phong trào phụ nữ nên năm 1907, hai bà đã cùng phối hợp với bà Crup-xkai-a (vợ Lê-nin) vận động thành lập Ban "Thư ký phụ nữ quốc tế". Bà Cla-ra Zet-kin được cử làm Bí thư.
 
Ngày 8/3/1908, 15.000 phụ nữ diễn hành trên các đường phố New York để đòi được giảm giờ làm việc, lương cao hơn và hủy bỏ việc bắt trẻ con làm việc. Khẩu hiệu của họ là "Bánh mì và Hoa hồng" (Bread and Roses). Bánh mì tượng trưng cho bảo đảm kinh tế gia đình, hoa hồng tượng trưng cho đời sống tốt đẹp hơn.

Sau đó, Đảng Xã hội Mỹ tuyên bố Ngày Quốc tế Phụ nữ là ngày 28/2/1909.

Trong Hội nghị phụ nữ do Quốc tế thứ II (Quốc tế Xã hội chủ nghĩa) tổ chức ngày 8 tháng 3 năm 1910, tại Copenhagen (thủ đô nước Đan Mạch), đã thông qua một quyết nghị quan trọng: Ngày 8 tháng 3 hàng năm được chọn làm ngày Quốc tế Phụ nữ, ngày đoàn kết đấu tranh của phụ nữ thế giới. Đề nghị của ba nhà hoạt động xuất sắc là Rô-la Lúc-xăm-bua (Ba Lan), Cla-ra Xét-ki-kin (Đức) và Cơ-rúp-xkai-a (Nga) được 100 đại biểu phụ nữ của 17 nước nhất trí tán thành.
 
Nghị quyết năm 1910 của Hội nghị quốc tế phụ nữ xã hội chủ nghĩa đã nêu cao khẩu hiệu ngày làm việc 8 giờ, công việc ngang nhau thì tiền lương ngang nhau so với nam giới, bảo vệ bà mẹ và trẻ em, thực hiện quyền bình đẳng nam nữ.
 
 
Năm sau, đúng vào ngày 8 tháng 3, nữ công nhân cùng với phụ nữ các ngành, các giới nhiều nước đã đứng lên tranh đấu. Nhiều cuộc mít tinh, biểu tình, bãi công nổ ra ở các nước châu Âu như Pháp, Anh, Áo, Ý, Đức, Đan Mạch... Trước nguy cơ của cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất, đông đảo phụ nữ các nước lên tiếng phản đối bọn đế quốc, đòi ngăn chặn cuộc chém giết tàn bạo chỉ đem lại lợi nhuận cho bọn tư sản.

Ngày 25/3/1911, 145 nữ công nhân, phần lớn là di dân người Ái Nhĩ Lan và người Do Thái của hãng Triangle Shirtwaist Company tại Thành phố New York đã chết trong một vụ cháy trong xưởng dệt. Họ không được ra ngoài trước khi hết giờ làm việc cửa xưởng đã được khóa chặt. Có khoảng 80.000 người diễu hành trong các đường phố đễ đưa đám tang lớn của 145 nạn nhân chết cháy.

Năm 1912, 14.000 công nhân hãng dệt đình công và la Lớn "Better to starve fighting than starve working"! (Chết vì chiến đấu hơn là chết đói vì làm việc). Nữ công nhân nghỉ việc 3 tháng

Năm 1912, sau lần diễu hành 14.000 đình công tại Lawrence, Massachusetts. Sự can đảm của họ đã làm cảm hứng cho nhà thơ Mỹ James Oppenheim (1882-1932) viết bài thơ Bread and Roses được đọc và hát trong ngày Quốc tế Phụ nữ.

Ngày 8/3/1914: Phụ nữ Đức đòi quyền bầu cử nhưng đến ngày 12/10/1918 mới được chấp thuận.

Ngày 23/2/1917 theo lịch Nga, nhằm ngày 8 tháng 3 dương lịch, các nữ công nhân Nga đã ra đường biểu tình đình công, đòi bánh mì và đòi trả chồng con họ trờ về từ chiến trận. Cuộc đình công này đã khiến Sa hoàng Nicolas II phải thoái vị và góp phần rất lớn vào cuộc Cách mạng tháng Mười ở Nga.

Điều kỳ lạ là, một quốc gia văn minh như Pháp, từng đi khai hoá thế giới mà đến ngày 21/4/1944, Quốc hội Pháp mới chấp nhận quyền bầu cử cho phụ nữ Pháp. Thuỵ Sĩ còn kỳ lạ hơn mãi đến năm 1971, mới chấp nhận quyền bầu cử cho phụ nữ.

 
 
 

Nước Nga xô- viết, quê hương của Cách mạng tháng Mười, là nơi đầu tiên thực hiện quyền bình đẳng nam nữ. Hiến pháp nhà nước Xô- viết ghi nhận các quyền chính trị, quyền lao động và học hành, quyền tự do bình đẳng của phụ nữ.

Lực lượng phụ nữ thế giới đã từng đấu tranh sôi nổi chống chủ nghĩa phát xít và đòi ngăn ngừa nguy cơ chiến tranh thế giới lần thứ lần thứ hai. Để bảo vệ đất nước thân yêu, phụ nữ nhiều nước đấu tranh đòi hòa bình, công lý và bình đẳng. Nhiều chị em đã hiên ngang ngã xuống trước mũi súng bọn phát xít để bảo vệ nền độc lập Tổ quốc và gìn giữ tương lai tươi đẹp của con em.

Cuối năm 1945, Hội nghị quốc tế phụ nữ đã quyết định thành lập "Liên đoàn phụ nữ dân chủ thế giới". Đó là một tổ chức rộng rãi bao gồm phụ nữ các ngành nghề, không phân biệt chủng tộc, dân tộc, tôn giáo, chính kiến, đấu tranh bảo vệ các quyền bình đẳng, chống áp bức bóc lột. Liên đoàn đã đưa ra các yêu sách đòi trả lương ngang nhau đối với những công việc như nhau, đòi ban hành các chính sách bảo hiểm cho lao động phụ nữ, đòi đề ra những biện pháp thiết thực bảo vệ bà mẹ và trẻ em.

Năm 1953, Đại hội quốc tế phụ nữ đã thông qua bản "Tuyên ngôn về quyền phụ nữ", nêu lên các yêu sách cơ bản và đồng thời là cương lĩnh đấu tranh của chị em thế giới. Số thành viên tham gia vào Liên đoàn phụ nữ dân chủ thế giới ngày càng đông đảo. Đặc biệt là phụ nữ các nước mới giành được độc lập Châu Á, Châu Phi và Mỹ- la tinh đã đóng vai trò ngày càng quan trọng trong phong trào. Năm 1975 được coi là "Năm phụ nữ" nhằm đẩy mạnh cuộc đấu tranh của phụ nữ thế giới.

Từ năm 1948, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Liên đoàn phụ nữ dân chủ thế giới. Phụ nữ Việt Nam đóng góp tích cực vào phong trào phụ nữ thế giới bằng cuộc đấu tranh cách mạng vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội của Tổ quốc, phụ nữ Việt Nam được chị em phụ nữ thế giới tin yêu và mến phục. Tấm gương chiến đấu dũng cảm của nhiều chị em đã trở thành nguồn cổ vũ mãnh liệt đối với phụ nữ nhiều nước trong cuộc đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng phụ nữ.
 
Phụ nữ Việt Nam hoạt động không mệt mỏi cho sự đoàn kết chặt chẽ giữa các lực lượng phụ nữ thế giới, cho sự hiểu biết lẫn nhau và cùng nhau đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc. Đồng thời, Liên đoàn phụ nữ dân chủ thế giới đã tỏ thái độ đồng tình và ủng hộ thiết thực phong trào phụ nữ nước ta. Trong cuộc đấu tranh chống Mỹ, cứu nước, chúng ta nhận được sự viện trợ nhiệt tình về tinh thần và vật chất của Liên đoàn và của nhiều tổ chức phụ nữ trên thế giới.
 
Ngày 8/3/1975, Liên Hiệp Quốc bắt đầu chú ý và tổ chức ngày Quốc tế Phụ nữ. 120 năm sau ngày 8/3/1857, năm 1977, Liên Hiệp Quốc quyết định mời các nước dành một ngày để nói lên quyền lợi của người phụ nữ và hòa bình thế giới. Và ngày 8 tháng 3 được chọn để trở thành ngày lễ chung cho nhiều quốc gia trên thế giới. Trong ngày này, đàn ông tặng hoa và quà cho những người phụ nữ trong đời của họ như mẹ, vợ, bạn gái... Tại một số nơi, nó cũng được xem tương đương với Ngày Hiền Mẫu (Mother's Day).
 
Hiện nay ở nước ta, ngày 8/3 còn là ngày kỷ niệm cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, hai vị nữ anh hùng dân tộc đầu tiên đã đánh đuổi giặc ngoại xâm, giành lại chủ quyền dân tộc. Niềm tự hào và ý chí vươn lên của phụ nữ Việt Nam, một phần cũng có cội nguồn từ truyền thống dân tộc độc đáo đó.

Người phụ nữ chiếm một địa vị quan trọng trên thế giới bởi họ chiếm đến 51% nhân loại. Thế nhưng tình hình chung của thế giới ngày nay vẫn chưa thuận lợi cho địa vị của người phụ nữ trong xã hội và gia đình. Nữ giới ở các nước, kể cả quốc gia phát triển, cơ hội thụ hưởng giáo dục, mức sống vật chất, điều kiện chăm sóc sức khỏe, cơ hội nghề nghiệp và quyền tham chính đều có sự chênh lệch lớn so với nam giới.
 
Những điều đó cho thấy đấu tranh cho nữ quyền vẫn còn là cuộc đấu tranh đầy khó khăn và dai dẳng. Trong cuộc đấu tranh này, không ai khác ngoài chính những người phụ nữ phải tiếp tục hành trình đi tìm "bánh mì và hoa hồng" cho bản thân.
 
 
T.Nhi (tổng hợp)
 

.