Để có ngày 30/4

07:04, 30/04/2019
.
(Báo Quảng Ngãi)- Để có ngày 30.4.1975 đại thắng mùa Xuân lịch sử, cuộc hành binh thần tốc táo bạo đó: “Chặt Buôn Mê Thuột rụng cả Tây Nguyên - Quét Huế - Thừa Thiên, đổ nhào Đà Nẵng...” (Tố Hữu), dân tộc ta đã đi qua một cuộc hành trình với biết bao bước ngoặt, lập nên bao chiến công và đổ bao hy sinh mất mát để đến với cái đích cuối cùng là Sài Gòn – Thành phố sau này mang tên Bác Hồ kính yêu trưa ngày 30.4. 
Lúc cánh cổng dinh Độc Lập, thành trì cuối cùng của chế độ ngụy quân, ngụy quyền bị xe tăng quân giải phóng húc đổ cũng là lúc chính thức lịch sử đặt dấu chấm hết cho cuộc đấu tranh bền bỉ và quyết liệt. Hai chữ “giải phóng”, giải phóng Sài Gòn, giải phóng cả bao dồn nén chất chứa bỗng vang lên trong một ca khúc nổi tiếng kịp thời truyền đi thông điệp “Việt Nam – Hồ Chí Minh” của nhạc sĩ Phạm Tuyên.
 
Ca khúc như một lời hiệu triệu nói thay bao nhịp đập con tim, bao náo nức hồ hởi, bao cảm xúc thiêng liêng dâng lên hướng về một con người vĩ đại, lãnh tụ kính yêu trong niềm hân hoan: “Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng”. Vâng, không chỉ trưa 30.4 mà trong các cuộc hành quân những người lính “Bộ đội Cụ Hồ” vẫn có Bác đồng hành, “Bác vẫn cùng chúng cháu hành quân”...

Để có ngày 30.4, dân tộc ta đã trải qua bao cuộc chuẩn bị cả tinh thần và lực lượng, cả truyền thống lịch sử ngàn năm, cả một khối đoàn kết Bắc Nam hậu phương, tuyền tuyến. Có một sự ngẫu nhiên, chiến công phải giải phóng đất nước khỏi ách thống trị của các chế độ phong kiến và giặc ngoại xâm nhiều lần diễn ra trong mùa xuân, mùa đẹp nhất, mùa mở ra bao khát vọng cho một tiến trình mới.
 
Ta ngỡ còn nghe âm vang những thớt voi trận, những tấm áo bào nhuộm màu khói trận của vua Quang Trung thần tốc đại thắng quân Thanh, thì trưa 30.4.1975 những con voi thép xe tăng với màu xanh áo lính, chân dép cao su, đầu đội mũ tai bèo của năm cánh quân như năm cánh sao vàng tiến về thành phố Sài Gòn. Những gương mặt trẻ trung ngời ngời khí thế chiến thắng vẫn còn mang dáng dấp những nông dân thuần Việt năm xưa.
 
 Xe tăng của quân giải phóng tiến vào dinh Độc Lập ngày 30.4.1975.                                                                                       Ảnh: tL
Xe tăng của quân giải phóng tiến vào dinh Độc Lập ngày 30.4.1975. Ảnh: tL

Để có ngày 30.4, chúng ta đã đi qua bao chiến trận từ nhỏ đến lớn, từ du kích đến chính quy, từ Ấp Bắc, Khe Sanh đến tết Mậu Thân 1968, từ mùa hè đỏ lửa 81 ngày đêm của thành cổ Quảng Trị đến trận chiến “Điện Biên Phủ trên không” năm 1972 cả nước chia nhau đánh trận hợp đồng, hậu phương lớn cũng trở thành trận địa. Hạt gạo nuôi quân được sàng sảy, được kết tinh vị ngọt bùi không chỉ qua bao bão lũ, mồ hôi mưa nắng mà còn cả khói bom, khói đạn. Có lẽ ít có đất nước nào như Tổ quốc ta phong tặng danh hiệu “Mẹ Việt Nam Anh hùng”.
 
Mẹ Âu Cơ của đồng bào trăm bọc trứng; Mẹ là Hai Bà Trưng, Bà Triệu “Cưỡi ngọn sóng Biển Đông” đánh giặc, mẹ là tượng đài Mẹ Thứ Quảng Nam có hơn mười con cháu là liệt sĩ. Mẹ Tổ quốc thật bình dị như dáng dấp tượng hình đất nước, thắt lưng buộc bụng giấu tờ báo tử tiễn con lên đường đánh giặc và nuôi con bằng hạt gạo từ tay mình làm ra. Mẹ là “Bầm ơi”, mẹ là mẹ Suốt... Đến cây lúa cũng bắt đầu mang tên mẹ (Mạ), rồi qua thì lúa con gái để sinh sôi trưởng thành đến nặng trĩu bông còng lưng cho: “Chiến dịch này ăn cơm không phải độn/ Mừng thì mừng thương mẹ biết bao nhiêu” (Hữu Thỉnh).

Để có ngày 30.4, những binh đoàn đã phải giấu mình trong những cánh rừng Trường Sơn. Trường Sơn chất ngất như con đê trên bán đảo. Trường Sơn giấu bao “bào thai chiến dịch” với những đường ống xăng dầu, những cánh võng mái tăng “bầu trời vuông”, những cơn sốt rét rừng với nắng màu ký  ninh vàng vọt.
 
Trường Sơn với những người con gái, con trai “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/ Mà lòng phơi phới dậy tương lai” (Tố Hữu). Trường Sơn cũng là nơi nghĩa trang hàng nghìn bia mộ có tên và chưa rõ tên, chập chờn mộng mị bao bướm trắng dọc khe suối mùa khô. Âm vang chiến trận vẫn còn trong lòng đất với hợp âm ngân vọng mà mỗi nấm mộ quét vôi là một phím đàn. Các anh, các chị vẫn nằm trong đội ngũ hành quân, những ngôi sao vẫn sáng ngời trên mộ, vẫn mắc võng theo đội hình đánh giặc.
 
Bộ đội hành quân.                                                                                                        Ảnh: tL
Bộ đội hành quân. Ảnh: TL

Trưa 30.4. Trước giờ chiến thắng còn có những người lính ngã xuống ở đầu cầu Sài Gòn khi mà bầu trời tự do sắp mở ra... Đường đến Sài Gòn 30.4 là con đường đi qua Ngã ba Đồng Lộc, Truông Bồn; đã qua những kênh rạch chằng chịt ở Nam Bộ; là con đường mòn trên biển với những đoàn tàu không số chở vũ khí vào Nam.
 
Các anh sẵn sàng hy sinh với khối bộc phá nghìn cân, để rồi hòa mình, thân thể mình, tên tuổi mình vào trong thẳm sâu nước biển xanh ngắt mặn mòi vị muối và cả máu nữa. Cuộc chiến tranh ác liệt cũng chính là nơi thử thách, nơi phát sáng những trầm tích lịch sử của ông cha từ chiến trận Bạch  Đằng, Hàm Tử, Chương Dương. Bây giờ, trên các hòn đảo của Tổ quốc thân yêu chúng ta vẫn có tượng thờ những người anh hùng như: Trần Hưng Đạo, công viên Võ Nguyên Giáp và đặc biệt là hình ảnh Bác Hồ.
 
Thưa Bác, đường đến ngày 30.4 cũng là con đường Bác ra đi tìm đường cứu nước, tìm con đường “cách mệnh”. Sức mạnh Việt Nam chính là sức mạnh trường tồn văn hóa Việt, nhân cách Việt được kết tụ và phát huy phong cách đạo đức sống của Người. Đó là một trong những nhánh hợp lưu phù sa để xuôi về đại lộ, tạo ra sức mạnh tổng hợp diệu kỳ của con đường giải phóng, thống nhất đất nước.

Trưa nay, trong dòng người vào thăm dinh Độc Lập, tôi bồi hồi đứng bên cạnh xe tăng cách đây 44 năm húc đổ cánh cổng sắt để cho người lính Bộ đội Cụ Hồ cắm cờ lên nóc dịnh Độc Lập. Con “voi thép” như mơ màng nằm ngủ yên lành trên bãi cỏ xanh mượt, dưới những tán cây cổ thụ xanh rờn. Bao thế hệ, bao lứa tuổi đã đến đây chụp ảnh, đặc biệt là các bạn trẻ.
 
Những cô gái áo dài thanh lịch duyên dáng làm mềm lại nắng Sài Gòn đang rót mật ong, làm dịu lại dư âm chiến tranh một thời. Các em nhỏ tung tăng đùa chơi bên khối vũ khí xanh ngời ánh thép, tôi lại chợt nhớ các anh buổi trưa năm ấy khi đến đây với bữa cơm dã chiến trong sân dinh Độc Lập mà nhà thơ Hữu Thỉnh – Một phóng viên binh chủng thiết giáp đã chớp được khá thần tình trong ống kính tâm hồn của mình: “Cơm dã chiến nấu bằng bếp điện/ Rau muống xanh như hái  tự ao nhà/ Trời còn đầy ắp hoa và pháo..." ; và rồi "Hàng cây so đũa cùng ta đó/ Ăn bữa cơm ở đích cuối cùng”.

Trưa ngày 30.4.1975 là cái đích cuối cùng của hành trình chiến thắng. Không biết những người lính ngày đó bây giờ ai còn, ai mất. Họ trở lại với cuộc sống đời thường giản dị. Họ gọi nhau là cựu chiến binh, nhưng hào khí chiến thắng vẫn còn nguyên vẹn, mới mẻ và sống động. Chắc chắn những người con của họ:“Lớp cha trước lớp con sau/ Đã thành đồng chí chung câu quân hành”.
 
Những người lính trẻ ấy vẫn mang khí thế hào hùng ngày chiến thắng 30.4 đến với hải đảo biển khơi, với biên cương xa xôi. Đường đến ngày 30.4 là con đường vươn tới bao khát vọng thống nhất, độc lập, tự do; là con đường mở ra cho dân tộc ta “Xây dựng đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” như ý nguyện Bác Hồ hằng mong muốn...

Tùy bút: NGUYỄN NGỌC PHÚ
 

.