Chuyện người Anh hùng Quảng Ngãi trên đất Tây Nguyên

07:07, 28/07/2018
.

*Ký của NGUYỄN VĂN CHIẾN


(Báo Quảng Ngãi)- Trong 21 năm làm chiến sĩ giao liên, luồn lách giữa núi cao, rừng sâu Tây Nguyên, ông đã đi bộ trên 150 nghìn cây số (khoảng gần 4 vòng trái đất), trong đó khoảng 70.000 cây số có mang hàng, với tổng cộng 650 kiện hàng khô. Đặc biệt, có một lần ông cõng 30kg vàng từ rừng núi Trà My, tỉnh Quảng Nam lên căn cứ Tỉnh ủy Kon Tum với quãng đường trên 200 cây số an toàn trong những ngày chiến tranh chống Mỹ gian khổ nhất.

Ông là Trần Dũng, sinh năm 1925, quê ở xã Đức Chánh, huyện Mộ Đức. Sau khi về hưu, ông sống cùng gia đình ở thôn 7, xã Đăk Ui, huyện Đăk Hà, tỉnh Kon Tum và đã mất cách đây vài năm.

Trưởng ty về hưu với chiếc ba lô

Hôm ấy, vào một buổi trưa cuối năm 1995, con trai ông làm việc trên Huyện ủy Đăk Hà vừa về đến cổng đã reo to: Cả nhà ơi! Ba được phong Anh hùng đây này!

Nó chạy thẳng ra vườn, nơi ông đang làm cỏ cà phê, giở tờ báo Quân đội Nhân dân ra đọc to cho ông nghe. Sững sờ, không tin đó là sự thật, ông bỏ cuốc vào nhà lấy kính để đọc. Đúng rồi! Đúng cả họ tên lẫn quê quán nữa đây...

Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Trần Dũng (bên trái) trên chiến trường Tây Nguyên trong những năm chống Mỹ.
Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Trần Dũng (bên trái) trên chiến trường Tây Nguyên trong những năm chống Mỹ.


Chỉ vài ngày sau, lúc ấy là cuối năm 1995, ông nhận được quyết định và giấy mời về tỉnh nhận danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Một niềm vui quá bất ngờ, quá lớn mà ông chưa bao giờ nghĩ tới trong cuộc đời đi làm cách mạng của mình.

Trong 21 năm tham gia hai cuộc kháng chiến gian khổ cùng dân tộc, chàng trai mang tên Dũng  làm nhiệm vụ giao liên trong rừng sâu, núi cao giữa bạt ngàn Tây Nguyên, dọc đường Trường Sơn với những câu chuyện như trong huyền thoại.

Trước khi về hưu năm 1979, ông là Trưởng ty Bưu điện tỉnh Gia Lai – Kon Tum, thương binh 2/4. Làm đến chức Trưởng ty mà đến lúc về hưu, tài sản của ông chỉ vỏn vẹn có chiếc ba lô đúng nghĩa. Cùng với người vợ là Y Nây, người dân tộc Xơ Đăng, vợ cõng một thằng, chồng dắt một đứa đi bộ hơn 30 cây số từ thị xã Kon Tum về xã Đăk Ui, huyện Đăk Hà. Ông chỉ vào một vạt đất ven đồi: Ta làm nhà ở đây!

Và từ đấy vợ chồng ông bắt đầu khai cơ lập nghiệp giữa thâm u của núi rừng. Ông nghĩ, cuộc đời đã toại nguyện lắm rồi, thời trai trẻ hiến dâng cho cách mạng, bây giờ nghỉ hưu phải có trách nhiệm gầy dựng cuộc sống cho gia đình. “Tôi không bao giờ nghĩ mình lại trở thành Anh hùng”, ông Dũng nói.

Tuổi trẻ dấn thân

Những ngày đầu mới tham gia cách mạng, Trần Dũng là chiến sĩ trinh sát, sau đó được giao nhiệm vụ bảo vệ cơ quan Tỉnh ủy Kon Tum và làm công tác giao thông liên lạc. Công việc chính của ông là soi đường, dẫn lối, đưa tin tức từ tỉnh đến cơ sở và báo cáo lại với tỉnh.

Đã có hàng trăm chiến công của người chiến sĩ giao bưu này lập nên. Từ năm 1955 đến 1959, ngoài công việc giao bưu của tỉnh, Bảy Cao (biệt danh anh em đặt cho ông Dũng) còn phụ trách đường dây của trung ương đi qua tỉnh Kon Tum. Trên địa bàn Kon Tum lúc ấy, từ phía nam giáp với tỉnh Gia Lai đến phía bắc giáp tỉnh Quảng Nam, Bảy Cao cho lập 6 trạm thông tin liên lạc (Đăk Pét, Đăk Xơ Hó, Tu Than, Kon Chôn, Kon Plin, Kon Biên) trên chặng đường hơn 200 cây số. Ngày ngày, ông đi lại như con thoi, mang tin tức liên lạc giữa các trạm giao liên phục vụ chiến trường.

Vào đầu mùa mưa năm 1959, đồng chí Trần Kiên, nguyên Bí thư Trung ương Đảng, nguyên Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương, lúc ấy là Bí thư Tỉnh ủy gọi Bảy Cao lên giao nhiệm vụ phải về Khu ủy Khu 5 đóng ở vùng núi Nước Oa thuộc huyện Trà My (Quảng Nam) để nhận một chuyến hàng đặc biệt của tỉnh. Sau hai ngày băng rừng lội suối đi từ Kon Tum, Bảy Cao đã đến điểm hẹn.

Biệt danh Bảy Cao


Là một thanh niên to lớn, khỏe mạnh, đoạn đường rừng núi giữa đại ngàn Tây Nguyên khi ấy từ trạm này sang trạm khác anh em trong đơn vị phải đi hết một ngày, thì ông đi chỉ non một buổi. Đi khỏe nên ăn cũng khỏe. Một bữa, Trần Dũng ở nhà nấu 7 lon gạo cho cả tổ ăn. Nhưng anh em không ai về, thế là một mình Trần Dũng ăn sạch cả nồi. Từ đó anh em gọi đùa là Bảy, rồi gắn với vóc người cao lớn mà chết danh “Bảy Cao” từ ấy. Đến bây giờ, nếu gọi Trần Dũng thì rất ít người biết, còn tên Bảy Cao thì cả huyện đều quen.


Sau hàng loạt các thủ tục mật mã, đến tối, một người không rõ mặt giao cho ông một cục hàng lớn. Bảy Cao không biết là hàng gì mà chỉ nghĩ trong bụng: “Đó là hàng đặc biệt”. Lại hơn hai ngày một mình vượt rừng, ông đã đưa được chuyến hàng đặc biệt ấy về đến Tỉnh ủy Kon Tum an toàn. Sau này, ông mới biết trong thùng đó là 30kg vàng và rất nhiều tiền của Khu ủy Khu 5 cấp cho tỉnh, tiếp viện cho chiến trường Kon Tum.

Đã biết bao lần ông nhận trách nhiệm đưa đường dẫn các đồng chí lãnh đạo  cao cấp của Khu ủy Khu 5 và Tỉnh ủy Kon Tum đi công tác an toàn. Có một lần, ông đưa đoàn cán bộ trên 50 người qua vùng kiểm soát gắt gao của địch, trong đó có các đồng chí Võ Chí Công, khi ấy là Bí thư Khu ủy Khu 5, sau này giữ chức Chủ tịch Hội đồng Nhà nước; Bùi San, khi ấy là Bí thư Tỉnh ủy Kon Tum. Lúc ấy, địa hình phức tạp và nguy hiểm thường được gọi là “vùng trắng”; cây rừng rậm rạp, nếu chừng ấy người đi sẽ để lại dấu vết, địch phát hiện sẽ rất nguy hiểm. Bảy Cao đã nghĩ ra một kế nhằm xóa dấu vết: Ông đã nhờ được một già làng tên là A Phích là người dân tộc thiểu số trong làng quen biết vạch đường chỉ lối. Gà gáy lần đầu, Bảy Cao dẫn đoàn người qua “vùng trắng”. Tất cả đều được quán triệt: “Không được bẻ cây cối dọc đường đi và không được chống gậy sâu”. Đoàn vừa đi rồi, ông già đã huy động trên 100 con trâu trong làng lùa qua để xóa dấu vết. Thế là thành công.

Về với buôn làng

Khi tôi gặp Anh hùng Trần Dũng thì ông  đã bước sang tuổi gần 80. Khi ấy ông bảo: “Từ ngày được phong Anh hùng đến giờ, mình thường xuyên phải đi họp, kể ra cũng mệt lắm, nhưng nghĩ đến cái tình cái nghĩa nên cũng gắng đi”. Cuộc họp mặt truyền thống nào ở huyện, ở tỉnh, có khi cả toàn quốc, ông cũng được mời dự. Xe ô tô về nhà đón đi, lại đưa về, nhưng ông không thích bằng ở nhà chăm sóc vườn cà phê, nuôi heo và thả cá.

Ngôi nhà cấp bốn của vợ chồng ông nằm trên sườn núi thuộc thôn 7 của xã Đăk Ui, huyện Đăk Hà luôn sạch sẽ và vô cùng thoáng mát. Ông bà trồng được 1.000 cây cà phê đã cho thu hoạch, 2,5 sào lúa nước mỗi năm thu được hơn ba tấn, còn thêm 10 con heo và gần 500 con cá... Tổng thu của gia đình ông được trên 100 triệu đồng mỗi năm, gọi là đủ ăn. Được cái bà vợ người dân tộc Xơ Đăng của ông cũng chịu thương chịu khó, nhất mực thương chồng, chăm chút cho ông những lúc trở trời cũng như khi đau ốm.

Trước đây, chính quyền huyện Đăk Hà đã làm cho ông ngôi nhà tình nghĩa khang trang ở trên phố huyện. Ông bảo: “Mình ở đâu mà chả được, suốt đời gắn bó với cái rừng, cái rẫy, với bà con Xơ Đăng rồi, bây giờ lên phố huyện ở thì nhớ lắm. Thôi, mình vẫn ở đây với bà con Đăk Ui vậy”.

Giờ đây, đêm về trên vùng cao xã Đăk Ui, ánh sáng điện tỏa sáng mọi nhà. Và mỗi dịp kỷ niệm ngày Thương binh-Liệt sĩ, trên ngọn cây Kơ nia ở đầu làng, chiếc loa truyền thanh lai vang lên bài hát “Đường tôi đi dài theo đất nước”của nhạc sĩ Vũ Trọng Hối: “Đời tôi như những con thoi…/ đời tôi như cánh chim bay…/ Dẫu thác lũ băng băng, dẫu bão núi giông rừng/ Dù đường trơn trời nghiêng hề chi/ đường Trường Sơn từng qua nhịp đi, những bước chân coi khinh gian nguy…”. Càng nghe, tôi càng khâm phục và kính trọng Anh hùng Trần Dũng một huyền thoại trên đất Tây Nguyên./.

                                                            


CÁC TIN KHÁC
.