Gặp lại Hoàng Sa- Kỳ 4: Hoàng Sa như gần lại

03:05, 02/05/2012
.

(QNĐT)- Có người hỏi: Sao các triều vua lại chọn dân Lý Sơn làm lực lượng chủ lực để đi Hoàng Sa mà không phải ngư dân vùng biển nào khác? Đơn giản vì dân Lý Sơn rất có kinh nghiệm trong bơi lặn và “thuộc” Hoàng Sa hơn cả!

TIN LIÊN QUAN


*Gặp nhà vô địch

Năm 68 tuổi (2006) ông Bùi Thượng ở thôn Tây xã An Hải, đảo Lý Sơn quyết định “gác dầm chèo” dù vẫn còn thòm thèm đi biển, chấm dứt 50 năm ngang dọc Hoàng Sa, với chỉ mỗi một nghề lặn bắt hải sâm. Ông đích thị là một trong những hậu duệ xứng đáng nhất của các thế hệ tiền bối ở Lý Sơn từng ngang dọc Hoàng Sa một thời.

 Ông Bùi Thượng bên chiếc cúp vô dịch lặn toàn miền Nam năm 1963. Ảnh: TRẦN ĐĂNG
Ông Bùi Thượng bên chiếc cúp vô dịch lặn toàn miền Nam năm 1963. Ảnh: TRẦN ĐĂNG


Ông Bùi Thượng chậm rãi kể: “Đầu năm 1963, có người thông báo cho tôi rằng sắp tới sẽ có cuộc thi lặn toàn quốc (từ vĩ tuyến 17 trở vào) tại Lý Sơn để tuyển ra một đội lặn giỏi nhằm “phụng sự quốc gia”. Tôi chẳng quan tâm gì đến việc “phụng sự” ấy đâu mà chủ yếu là thử sức với đám trai tráng trên toàn miền Nam bấy giờ thôi.

Không biết có phải vì xuất phát từ việc “lấy lòng người đẹp” đây không mà năm ấy tôi lặn một lèo đến 70 mét nước, trước sự ngạc nhiên của hàng trăm vận động viên cừ khôi khắp nơi về đây dự thi”.

“Người đẹp” mà ông vừa nói chính là vợ ông bây giờ. Bà nghe ông “tán” thế, nguýt một cái rõ dài rồi lặng lẽ xuống bếp, tiếp thêm nước sôi cho chồng “hầu” khách. Ông Bùi Thượng là người có máu hài hước. Thi thoảng ông cũng thêm chút “mắm muối” cho câu chuyện mặn mà nhưng việc ông vô địch lặn toàn miền Nam là không thêm chút “gia vị” nào.

Ông chứng minh câu chuyện thật ấy bằng một chiếc cúp đang để trên bàn trước mặt khách. Rót thêm trà (có cả rượu vú nàng nữa, cứ một ly trà thì kèm một ly rượu) cho khách, ông nói: “Thực ra cũng để biết sức mình nó đến đâu thôi. Lặn thi khác xa với “lặn không thi”, tức lặn ngoài Hoàng Sa ấy”.

Theo cha đi biển năm 18 tuổi, 50 năm sau, ông Bùi Thượng trở thành người “thuộc” vùng biển Hoàng Sa nhất đảo Lý Sơn. Hình như mọi bất trắc tai ương của nghề lặn biển đều “chê” ông vậy. Tuổi xưa nay hiếm rồi mà tay chân ông vẫn còn khá rắn chắc và vạm vỡ, da dẻ đỏ au, giọng oang oang như thời trai trẻ. “Tôi còn khỏe mạnh và sống được đến giờ là nhờ tôi biết … sợ. Ông mở đầu câu chuyện 50 bằng một lời khuyên có tính cảnh báo như vậy.

Lý Sơn hiện có khoảng 500-600 thợ lặn chuyên nghiệp, chủ yếu là đi Hoàng Sa và Trường Sa để lặn bắt hải sâm, đồn đột và tìm sắt phế liệu từ những con tàu đắm. Bằng các phương tiện lặn biển thô sơ, lại cậy sức trẻ, không ít trai tráng ở hòn đảo này tàn phế suốt đời do chủ quan nên bị sức ép của nước khiến họ bị tai biến.

Riêng “nhà vô địch” Bùi Thượng thì không, hầu như ông chưa gặp một trắc trở nào trong quá trình lặn biển. Ngư trường chủ yếu của ông vẫn là Hoàng Sa. Vì theo ông, ở đó có nhiều hải sâm là một lẽ, lẽ nữa là từ sâu thẳm lòng mình, đó là nơi mà ông bà mình đã từng đổ xương máu ngoài ấy nên ông cảm thấy gần gũi. Thời ông còn trai trẻ, hầu như không một hòn đảo nào ở quần đảo Hoàng Sa mà ông không biết đến.

“Cho đến khi tiếp cận với vùng biển Hoàng Sa và khai thác hải sâm ngoài ấy, tôi mới hiểu vì sao từ mấy trăm năm trước, bằng các phương tiện thô sơ và đầy nguy hiểm mà ông bà mình vẫn chinh phục Hoàng Sa. Vùng biển ấy là cả một “kho” về các loài hải sản, toàn những thứ quý hiếm”. Ông nói.

Trở lại với chuyện “sợ” của ông Bùi Thượng. Ông nhớ lại: “Xuống dưới đáy đại dương ở độ sâu 70 mét nước, nhiều hôm như gặp một lâu đài dưới lòng biển. Những dải san hô đủ các màu sắc, lại nghe đủ thứ âm thanh, những tưởng mình đi lạc vào cung điện nào trong chuyện cổ. Có hôm hải sâm nằm la liệt, chỉ việc nhặt bỏ vô bao chứ chả cần phải lùng tìm. Nhưng chính vì quá nhiều loài hải sản quý hiếm như vậy khiến không ít người gặp nạn vì ham”.

Thời ông còn trẻ, ngay cả bây giờ cũng vậy, nhiều thợ lặn không có quần áo lặn và máy thở chuyên dụng, chỉ ngậm có mỗi cái ống hơi, nối với tàu bằng một sợi dây buộc ở lưng, khi nào cần lên mặt nước hoặc gặp trục trặc thì cứ việc giật mạnh dây. Người ngồi trên tàu, cứ thế kéo thật mạnh để người dưới đáy biển trồi lên cho nhanh. Chính vì muốn “cho nhanh” ấy nên nhiều người bị đột quỵ.

Kinh nghiệm của ông Thượng cho biết, cứ lên vài chục mét thì cần “dừng lại” để nghỉ, cũng là để cơ thể làm quen với áp lực của nước chứ nếu lên đột ngột, cơ thể không thích nghi kịp dẫn đến tai biến là vậy. Ở Lý Sơn, năm nào cũng có năm bảy thanh niên trai tráng, dù là những thợ lặn chuyên nghiệp nhưng vẫn bị tai biến dẫn đến tàn phế suốt đời.
Năm mươi năm ngang dọc vùng biển ấy, từng thuộc sao trời, từng quen con nước như thể quen cái cốc, thuộc cái chén ở nhà mình, giờ đã gác dầm chèo nhưng ông già 74 tuổi ấy vẫn đau đáu nỗi niềm khi nhắc đến Hoàng Sa. “Nếu cho tôi trẻ lại, tôi vẫn cho mũi thuyền lao về hướng ấy”. Chợt thấy đôi mắt ông lão nhòe đi trong sương chiều khi nói xong câu đó.

*Trực chỉ Hoàng Sa

Sau 50 ngày đêm bị phía Trung Quốc bắt giữ, cuối cùng rồi họ cũng buộc phải thả 21 ngư dân Lý Sơn vào ngày 20/3/2012 vừa rồi. Thuyền trưởng tàu QNg 66074 TS- Trần Hiền trở về trong niềm vui đẫm nước mắt.  Mở sổ nhật ký hải trình, Hiền ghi thêm một lần bị bắt.  Ở nhà, vợ anh sinh thêm một đứa con. Đảo Lý Sơn lại có thêm một công dân nối gót ông bà thẳng tiến Hoàng Sa mỗi lần xuống tàu đi biển…

 Mai Phụng Lưu và cây phong ba do anh mang về từ Hoàng Sa. Ảnh: TRẦN ĐĂNG
Mai Phụng Lưu và cây phong ba do anh mang về từ Hoàng Sa. Ảnh: TRẦN ĐĂNG


Hỏi vì sao mỗi lần ra Hoàng Sa là biết sẽ gặp hiểm nguy mà vẫn cứ ra ngoài đó? Anh Hiền nói không cần đắn đo: “Vì đó là ngư trường quen thuộc của chúng tôi!”. Mai Phụng Lưu, con “kình ngư” của Lý Sơn, khẳng định thêm: “Đất của ông bà mình, mình ra đó đánh cá, sợ chi?”. Chúng tôi tin anh Lưu nói điều đó là xuất phát từ sự chiêm nghiệm máu thịt về vùng biển ấy ngót 30 năm nay chứ không phải đó là kết quả của sự bốc đồng.

Trần Hiền vừa là đàn em Mai Phụng Lưu về tuổi tác, vừa đàn em trong dạn dày “trận mạc”. Hiền mới bị bắt có 2 lần, Lưu những 4 lần! Tuổi Bính Ngọ (1966), Mai Phụng Lưu tự nhận mình là “con ngựa biển”, từng tung vó ngang dọc Hoàng Sa, bất chấp hiểm nguy luôn rình rập mình, bởi vì anh chỉ nghĩ đơn giản một điều rằng, Hoàng Sa là đất của ông bà mình, là “nhà” của mình thì mình có quyền ở, có quyền đi lại.

Trong số gần 200 tàu cá của ngư dân Lý Sơn luôn có mặt tại vùng biển Hoàng Sa thì tàu của Mai Phụng Lưu có số ngày đi biển Hoàng Sa lâu nhất. Trừ những ngày biển động, còn lại là hầu như anh có mặt ngoài ấy, không chịu di chuyển sang bất cứ một ngư trường nào khác. Vì vậy, Mai Phụng Lưu thuộc Hoàng Sa như thuộc ngõ nhà mình.
 
Phải nói rằng, hai tiếng Hoàng Sa như một ma lực đối với Mai Phụng Lưu, ngay cả bản thân Lưu cũng không lý giải một cách rạch ròi vì sao mình lại “mê tín” Hoàng Sa đến vậy, đến mức, hễ mỗi lần tàu rời bến cảng Lý Sơn là trực chỉ Hoàng Sa, như thể có một thế lực siêu nhiên nào đó đưa đường dẫn lối Lưu đi. Và chỉ có thể giải thích rằng, đó là kết quả của một tình yêu tự nguồn, luôn hằn sâu trong máu huyết chứ không cố mà có được.

Trong nhà Mai Phụng Lưu luôn có những hiện vật độc đáo do anh sưu tầm được tại vùng biển Hoàng Sa. Một là cây phong ba, hai là những bao cát màu vàng! Cây phong ba bây giờ như bộ rễ khô cứng, được Mai Phụng Lưu đánh vẹc ni láng bóng, đặt ngay phòng khách. Hỏi vì sao không “nuôi” cho cây phong ba ấy sống mà để chết vậy? Lưu tiếc rẻ: “Đâu có tự do đào thoải mái như ở Lý Sơn mà giữ bộ rễ nó mang về được. Để khỏi bị phát hiện, gần như tôi chặt luôn cả gốc, làm sao cho nhanh nhất, mang nó về như một kỷ niệm, như mang một góc của Hoàng Sa về đặt tại Lý Sơn này”.

Mai Phụng Lưu kể rằng, cây phong ba ấy cùng với hai bao cát màu vàng là do anh mang về từ đảo Bạch Quy- hòn đảo mà bất cứ một tàu đánh cá nào của Lý Sơn đi Hoàng Sa cũng phải ngang qua đó. Ngang qua Bạch Quy thì có rất nhiều tàu cá của Lý Sơn nhưng dừng lại để “mang một góc Hàng Sa về Lý Sơn” thì chỉ có một mình Mai Phụng Lưu nghĩ ra? Nghe chúng tôi nói vậy, Lưu đính chính: “Thực ra anh em khác cũng muốn ghé Bạch Quy để lấy một ít trứng rùa hoặc dăm bảy ký cát về làm kỷ niệm nhưng cho tàu vô sát đảo là rất khó khăn, nếu không có kinh nghiệm, tàu dễ bị mắc kẹt lắm. Tôi quen rồi nên ra vô đảo Bạch Quy dễ dàng hơn những anh em khác”.

Đến nhà Mai Phụng Lưu bây giờ như gặp một Hoàng Sa thu nhỏ, ở đó không chỉ có những câu chuyện bất tận về vùng biển ấy sau 30 năm vật lộn với thiên tai và cả nhân tai được Lưu kể không sót một chi tiết nào mà còn có thể sờ tận tay một phần xương thịt của Hoàng Sa thông qua những hiện vật ấy. Bây giờ, đó không chỉ đơn thuần là những hiện vật nữa. Đó là Tổ quốc! Nhìn những bao cát vàng và cây phong ba ấy, thấy Hoàng Sa như gần lại với  ta hơn.

Trần Đăng
 


CÁC TIN KHÁC
.