“Nobel Toán học” về tay Ngô Bảo Châu

01:08, 19/08/2010
.

 
Giáo sư Ngô Bảo Châu, được đánh giá là một trong những nhà toán học xuất sắc nhất hiện nay, đã vinh dự nhận được Giải thưởng Huy chương Fields danh giá (được ví như giải Nobel của toán học cho những nhà toán học), do các thành viên Ủy ban Huy chương Fields bầu chọn, tại phiên toàn thể của Đại hội Liên đoàn Toán học thế giới (ICM 2010), khai mạc hôm nay (19.8) tại Trung tâm Hội nghị quốc tế Hyderabad ở thành phố Hyderabad, bang Andhra Pradesh (Ấn Độ).

Vài ngày trước khi lễ trao giải diễn ra, Giáo sư Ngô Bảo Châu, 38 tuổi, đã được giới chuyên môn đánh giá là một trong những ứng viên sáng giá nhất cho giải thưởng Fields, giải thưởng danh giá nhất trong ngành toán học.

Ông là một trong 20 nhà toán học được chọn trình bày báo cáo công trình khoa học và thành tựu nghiên cứu tại Đại hội lần này. Ngoài ra, Giáo sư Ngô Bảo Châu cũng là một trong hai nhà khoa học dưới 40 tuổi được mời thuyết trình tại Đại hội.

Giải thưởng Huy chương Fields 4 năm mới được trao một lần, do nhà toán học người Canada John Charles Fields sáng lập và được trao lần đầu vào năm 1936. Mỗi lần, Huy chương Fields được trao cho tối đa 4 nhà toán học không quá 40 tuổi. Phần thưởng gồm một huy chương vàng, mặt trước khắc hình nhà bác học thiên tài Hy Lạp cổ đại Archimedes, còn tên người nhận giải khắc ở rìa của huy chương. Người thắng giải được chọn thông qua bỏ phiếu bởi các thành viên Ủy ban Huy chương Fields, đại diện cho những người tham dự ICM.
Như vậy, với việc được nhận Giải thưởng Huy chương Fields, Giáo sư Ngô Bảo Châu đã làm rạng danh đất nước Việt Nam trong lĩnh vực toán học. Và không chỉ mang lại vinh quang cho đất nước Việt Nam, anh cũng góp phần đem lại tiếng vang lớn về toán học cho khu vực châu Á.

Được biết, trong suốt 74 năm qua, cả châu Á chỉ mới có Nhật Bản là nước duy nhất trong khu vực có công dân được nhận giải thưởng danh giá này (vào các năm 1954, 1970 và 1990).

Tại lễ trao Giải Huy chương Fields, Ngô Bảo Châu đã nhận giải thưởng gồm một chiếc huy chương vàng và hiện kim trị giá 15.000 đôla Canada (tương đương 14.500 USD).
 

Người của những giải thưởng Toán học

Ngô Bảo Châu sinh năm 1972 tại Hà Nội. Anh đam mê toán học ngay từ nhỏ và kết quả của những năm tháng mày mò nghiên cứu toán học là các chiếc Huy chương vàng Olympic Toán học Quốc tế mà anh giành được trong hai năm liên tiếp, 1988 và 1989.

Anh cũng là người Việt Nam đầu tiên giành 2 huy chương vàng Olympic Toán học quốc tế.

Ngô Bảo Châu bắt đầu du học tại Pháp từ năm 1990 và bảo vệ tiến sĩ vào năm 1997. Sau đó, anh công tác ở Trung tâm Khoa học quốc gia Pháp cho đến năm 2004, và sau đó về giảng dạy tại Đại học Paris 11.
 
Bà Pratibha Patil - Tổng thống Ấn Độ trao huy chương Fields - giải thưởng toán học cao quý nhất thế giới cho GS Ngô Bảo Châu.
Bà Pratibha Patil - Tổng thống Ấn Độ trao huy chương Fields - giải thưởng toán học cao quý nhất thế giới cho GS Ngô Bảo Châu.

Vào năm 2004, anh được trao tặng Giải thưởng Toán học Clay cùng với Giáo sư người Pháp Gérard Laumon vì đã có công trình chứng minh Bổ đề Cơ bản thuộc Chương trình Langlands.

Ngô Bảo Châu được phong hàm Giáo sư tại Việt Nam vào năm 2005 và trở thành vị giáo sư trẻ nhất của Việt Nam khi nhận danh hiệu này ở tuổi 33.
 
Bốn năm sau đó, công trình chứng minh Bổ đề cơ bản thuộc Chương trình Langlands của anh đã được tạp chí Time bình chọn là 1 trong 10 thành tựu khoa học tiêu biểu của năm 2009.

Giáo sư Ngô Bảo Châu đã nhận lời mời làm việc tại UChicago, Mỹ bắt đầu từ ngày 1.9.2010. Vào thời điểm Ngô Bảo Châu nhận lời mời của Uchicago, website của trường đã có bài viết: “Nhà toán học xuất chúng chấp nhận sự bổ nhiệm tại UChicago”.
 
 
Các nhà toán học đã chinh phục giải Fields

    * 2010: Ngô Bảo Châu (Việt Nam), Elon Lindenstrauss (Israel), Stanislav Smirnov (Nga), Cédric Villani (Pháp)
    * 2006: Andrei Okounkov (Nga), Grigori Perelman (Nga song ông này từ chối nhận giải), Terence Tao (Úc), Wendelin Werner (Pháp)
    * 2002: Laurent Lafforgue (Pháp), Vladimir Voevodsky (Nga)
    * 1998: Richard Borcherds (Anh), Timothy Gowers (Anh), Maxim Kontsevich (Nga), Curtis T. McMullen (Mỹ)
    * 1994: Jean Bourgain (Bỉ), Pierre-Louis Lions (Pháp), Jean-Christophe Yoccoz (Pháp), Efim Zelmanov (Nga).
    * 1990: Vladimir Drinfel’d (Liên Xô), Vaughan F.R. Jones (New Zealand), Shigefumi Mori (Nhật Bản), Edward Witten (Mỹ)
    * 1986: Simon Donaldson (Anh), Gerd Faltings (Đức), Michael Freedman (Mỹ)
    * 1982: Alain Connes (Pháp), William Thurston (Mỹ), Shing-Tung Yau (Mỹ)
    * 1978: Pierre Deligne (Bỉ), Charles Fefferman (Mỹ), Grigory Margulis (Liên Xô), Daniel Quillen (Mỹ)
    * 1974: Enrico Bombieri (Ý), David Mumford (Mỹ)
    * 1970: Alan Baker (Anh), Heisuke Hironaka (Nhật), Sergei Novikov (Liên Xô), John G. Thompson (Anh)
    * 1966: Michael Atiyah (Anh), Paul Joseph Cohen (Mỹ), Alexander Grothendieck (Pháp), Stephen Smale (Mỹ)
    * 1962: Lars Hörmander (Thụy Điển), John Milnor (Mỹ)
    * 1958: Klaus Roth (Anh), René Thom (Pháp)
    * 1954: Kunihiko Kodaira (Nhật Bản), Jean-Pierre Serre (Pháp)
    * 1950: Laurent Schwartz (Pháp), Atle Selberg (Na Uy)
    * 1936: Lars Ahlfors (Phần Lan), Jesse Douglas (Mỹ)
 
Theo TNO

.