Tái chế phụ phẩm thủy sản: Khoảng trống "tỷ đô"

09:02, 28/02/2019
.
(Báo Quảng Ngãi)- Hầu hết các doanh nghiệp (DN) chế biến thủy sản trên địa bàn tỉnh chỉ tập trung sơ chế hoặc chế biến thô, chưa chú trọng đầu tư công nghệ chế biến sâu, nên dù có giá trị gia tăng và tỷ suất lợi nhuận cao, nhưng nhiều phụ phẩm thủy sản vẫn bị lãng phí.
TIN LIÊN QUAN

Theo Bộ NN&PTNT, mỗi năm, cả nước có 250 - 320 nghìn tấn phụ phẩm thủy sản, chủ yếu là tôm. Tuy nhiên, hiện chỉ một phần nhỏ phụ phẩm được sử dụng để sản xuất phân bón, chế biến thức ăn chăn nuôi, còn lại bị xem là phế phẩm!

Chưa tận dụng hiệu quả thủy sản

Mỗi năm, Quảng Ngãi có trên 11,6 nghìn tấn thủy sản chế biến, trong đó phụ phẩm chiếm từ 15 - 20%, tương đương 1.740-2.320 tấn. Nguồn phụ phẩm này hoàn toàn có thể được chiết xuất và chế biến ra các sản phẩm có giá trị kinh tế cao, để phục vụ nhiều ngành khác nhau, nhất là mỹ phẩm và dược phẩm.
 
Tuy nhiên, chưa có DN nào trên địa bàn tỉnh đầu tư công nghệ, máy móc thiết bị để xử lý và chiết xuất phụ phẩm thủy sản. Vì vậy, ngoài một lượng nhỏ phụ phẩm thủy sản được sử dụng làm nguyên liệu, phục vụ ngành sản xuất phân bón, chế biến thức ăn chăn nuôi, thì số còn lại trở thành phế phẩm!
 
 Chỉ ít phụ phẩm tôm được sử dụng làm nguồn nguyên liệu sản xuất thức ăn gia súc.
Chỉ ít phụ phẩm tôm được sử dụng làm nguồn nguyên liệu sản xuất thức ăn gia súc.

Không chỉ lãng phí, việc vứt bỏ phụ phẩm thủy sản còn gây ô nhiễm môi trường. Tại KCN Quảng Phú (TP.Quảng Ngãi), nhiều DN, cơ sở chế biến thủy sản nói chung, tôm nói riêng hiện đang gặp nhiều khó khăn trong việc xử lý phụ phẩm. “Nước thải và phụ phẩm tôm bị phân hủy tự nhiên, gây ô nhiễm môi trường trầm trọng, nhưng hiện giờ chúng tôi chưa biết làm cách nào xử lý triệt để”, đại diện một DN chế biến tôm tại KCN Quảng Phú cho biết. Đối với vấn đề tận dụng phế phẩm tôm để xử lý và tái chế thành các sản phẩm, đại diện DN này cho rằng cũng đã nghiên cứu và tính toán, nhưng chưa đủ nguồn lực đầu tư!
 
Theo đánh giá của Bộ NN&PTNT, đến năm 2025, phụ phẩm từ ngành chế biến thủy sản trong cả nước, chủ yếu là tôm đạt trên 360 nghìn tấn. Trong đó, Quảng Ngãi cũng “đóng góp” gần 3.000 tấn. Nếu được xử lý và chiết xuất, mỗi năm, phụ phẩm từ tôm có thể chiếm 10% trong tổng giá trị ngành tôm, với khoảng 3 tỷ USD, tương đương giá trị xuất khẩu gạo của cả nước. Vì vậy, đây chính là “mỏ vàng” cho các DN, nếu chú trọng nghiên cứu và đầu tư công nghệ xử lý, chiết xuất.
Không chỉ con tôm, mà hầu hết các loại phụ phẩm thủy sản đều có thể được xử lý và chiết xuất thành các sản phẩm phục vụ các ngành mỹ phẩm, dược phẩm, y tế... có giá trị kinh tế cao. Bởi cùng 1kg phụ phẩm tôm, nếu bán cho các DN sản xuất thức ăn chăn nuôi, hoặc phân bón thì chỉ có giá 2 - 3 nghìn đồng/kg; nhưng nếu được xử lý và tái chế, phục vụ cho ngành sản xuất thực phẩm, thì giá bán sẽ trên 100.000 đồng/kg; còn nếu nghiên cứu chiết xuất ra các chất phục vụ ngành y tế, mỹ phẩm, thì giá bán từ 500 - 600 USD/kg.
 
Việc tận dụng phế phẩm thủy sản vừa giúp các ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi, dược phẩm, mỹ phẩm, y tế chủ động nguồn nguyên liệu sẵn có; vừa giải bài toán ô nhiễm môi trường, gia tăng giá trị ngành sản xuất và nuôi trồng thủy sản, góp phần cải thiện thu nhập cho người dân...

Cần sự trợ lực

Dù mang lại giá trị cao, nhưng việc xử lý và chiết xuất phụ phẩm thủy sản đòi hỏi thời gian và chi phí đầu tư rất lớn. Ngoài nguồn nhân lực chất lượng cao, công nghệ và trang thiết bị máy móc xử lý, chiết xuất phụ phẩm cũng phải tiên tiến, hiện đại. Tuy nhiên, điểm nghẽn trong chuỗi giá trị ngành thủy sản trong tỉnh hiện nay là các DN chỉ thực hiện sơ chế, chế biến thô, chưa chú trọng đầu tư công nghệ nghiên cứu, xử lý và sản xuất các sản phẩm từ phụ phẩm thủy sản.

Trong bối cảnh nguồn lợi thủy sản ngày càng suy giảm, chi phí sản xuất tăng, thì việc tận dụng phế phẩm được xem là giải pháp căn cơ, nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất cho DN. Đây cũng là cơ sở giúp DN chuyển tư duy sản xuất từ “chế biến thô” sang “chế biến sâu”, nhằm giảm chi phí, tăng giá trị cạnh tranh, theo mục tiêu của Đề án tái cơ cấu ngành thủy sản. Tuy nhiên, để hiện thực hóa mục tiêu này, ngoài sự nỗ lực của DN trong việc đầu tư ứng dụng khoa học công nghệ, trang thiết bị máy móc, thì cần sự trợ sức từ cộng đồng xã hội, trong đó có việc nhà nước ban hành những cơ chế hỗ trợ ưu đãi và đặc thù, nhằm khuyến khích DN mạnh dạn đầu tư.
               Bài, ảnh: MỸ HOA

.