Kỷ niệm 67 năm Quốc khánh nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2/9/1945- 2/9/2012):
Chủ tịch Hồ Chí Minh với bản Tuyên ngôn Độc lập lịch sử

05:09, 02/09/2012
.

(QNĐT)- Sau hơn 15 năm chuẩn bị và tập dượt, đấu tranh bền bỉ, kiên cường, chỉ trong vòng 15 ngày cuối tháng Tám, năm 1945 lịch sử, cuộc Tổng khởi nghĩa của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giành thắng lợi hoàn toàn. Lần đầu tiên trong lịch sử, chính quyền trong cả nước thuộc về tay nhân dân.

TIN LIÊN QUAN

Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, trước cuộc mittinh khổng lồ của hàng chục vạn nhân dân, thay mặt Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc Bản Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố trước quốc dân và thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời- Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam châu Á.

Ở phần cuối của Bản Tuyên ngôn độc lập- năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. Đó là tư tưởng về nền độc lập dân tộc chân chính hoàn toàn và đặt tiền đề hướng đến tương lai ấm no, tự do, hạnh phúc.

Với thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám và Tuyên ngôn Độc lập, nhân dân ta hoàn toàn xứng đáng được hưởng cuộc sống tự do, độc lập. Bởi vì đó là cuộc cách mạng của lòng dân Việt Nam và khát vọng vươn đến của của nhân loại tiến bộ yêu chuộng hòa bình. Tuyên ngôn Độc lập đã mở ra kỷ nguyên mới cho toàn dân Việt Nam – kỷ nguyên độc lập, tự do và Chủ nghĩa xã hội.

Bản Tuyên ngôn thể hiện khí phách anh hùng, tinh thần độc lập, tự chủ của dân tộc ta. Từ mùa thu năm 1940, nước ta trở thành thuộc địa của phát xít Nhật. Khi Pháp rút chạy, Nhật đầu hàng Đồng minh, vua Bảo Đại thoái vị, nhân dân cả nước đã đoàn kết, đồng loạt nổi dậy đánh đổ xiềng xích thực dân hơn tám mươi năm và chế độ quân chủ phong kiến hà khắc để lập nên chế độ dân chủ Cộng hòa.

Rõ ràng là chúng ta đã “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”.  Đó là tư tưởng về nền độc lập dân tộc chân chính hoàn toàn, đặt tiền đề hướng đến tương lai ấm no, tự do, hạnh phúc. Nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người dân một nước độc lập, làm chủ vận mệnh của mình.

Bản Tuyên ngôn mở đầu bằng câu trích trong Bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ: “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.

Tiếp theo sau, là câu trích dẫn từ bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của nước Pháp: "Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi…" Đó là tư tưởng văn hóa-chính trị, nhân văn của một lãnh tụ vĩ đại, vì dân, vì nước. Sự mở đầu của Tuyên ngôn độc lập mang tư tưởng chính trị nhưng không bắt đầu bằng lý luận mà bằng những điều hiển nhiên, lẽ phải, vì được tạo hóa ban cho con người.


Chủ tịch Hồ Chí Minh sử dụng cái “chân lý cao cả” mà nhân dân Pháp và nhân dân Mỹ phải đổ bao xương máu và nước mắt để viết nên. Đó là tầm nhìn xa, sự nhạy cảm về chính trị và thông hiểu về thế giới là giành được nền độc lập, quyền tự do, tự quyết cho dân tộc đã khó, nhưng để nền độc lập đó được tất cả các nước công nhận, tôn trọng còn khó hơn.

Bởi vì Người luôn thấu hiểu trong bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ, các thế lực thực dân, đế quốc luôn tìm cách tiêu diệt chính quyền cách mạng còn non trẻ của Đảng và dân tộc Việt Nam.

Mặt khác, trong Tuyên ngôn độc lập năm 1945, Hồ Chí Minh đã gắn kết, khẳng định quyền cơ bản của con người và quyền của các dân tộc. Đây là những khái niệm pháp lý của quốc gia và quốc tế được xác lập thành phạm trù luật pháp quốc tế hiện đại: Quyền dân tộc cơ bản, bao gồm độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.

Điều đó có ý nghĩa to lớn, vì trong thời điểm sau chiến tranh thế giới lần thứ II, các nước thuộc địa và phụ thuộc không được luật pháp quốc tế bảo vệ. Các nước đế quốc, chủ nghĩa thực dân Pháp coi vấn đề Việt Nam là vấn đề “nội bộ” của nước Pháp. Với Tuyên ngôn Độc lập, Hồ Chí Minh đã đóng góp một điểm son trong lịch sử luật pháp quốc tế.

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “...Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tôc đã gan góc đứng về phía Đồng minh chống phát- xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do, dân tộc đó phải được độc lập!”

Đây là Bản Tuyên ngôn của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vừa giành được độc lập bằng cuộc chiến đấu, đầy hy sinh gian khổ của toàn thể dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ. Đây còn là lời lẽ tâm huyết, đầy cảm kích của đội tiên phong giác ngộ nhất của giai cấp cách mạng nhất, tuyệt đối trung thành với sự nghiệp đấu tranh chống thực dân xâm lược, giải phóng dân tộc và giành độc lập, tự do cho nhân dân, đất nước.

Chính vì vậy, tại buổi mít-tinh ở Đại sự quán Việt Nam tại Pháp ngày 14/05/2010 nhân kỷ niệm lần thứ 120 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ông Han D’Orville, phó Tổng Giám đốc UNESCO khẳng định “Tuyên ngôn của Người bắt đầu chính từ những trích dẫn trong Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ… Quan điểm của Người đã nói trước được điều mà 15 năm sau, vào năm 1960, Liên Hợp Quốc đã đưa vào Tuyên bố trao trả độc lập cho các nước và các dân tộc thuộc địa…”. Và đến năm 1970, Đại hội đồng Liên Hợp Quốc mới nhất trí tuyên bố chấm dứt “vô điều kiện chế độ thuộc địa dưới mọi hình thức và mọi biểu hiện”.

Cho đến nay 67 năm đã trôi qua, nhưng đọc, tìm hiểu và suy ngẫm, chúng ta càng cảm nhận, tự hào về những nét độc đáo, nhạy bén chính trị, sự tỉnh táo, khéo léo, linh hoạt trong nghệ thuật đấu tranh ngoại giao qua cách thể hiện tinh tế với nội dung hàm ý sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa- Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân theo tư tưởng của Người.


Giá trị sâu sắc, ý nghĩa thiêng liêng đối với dân tộc và tính thời đại của Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 luôn mãi trường tồn.


Tuấn Anh

    
 


.